GIẢI NHÂN QUYỀN VN 2008 TRONG SỐ NÀY
CỘNG H̉A XHCN VIỆT NAM
Độc lập –
Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội ngày 01-6-2010
TỐ CÁO VÀ
ĐỀ NGHỊ KHỞI TỐ VÀ TRUY TỐ TRUNG
TƯỚNG VŨ HẢI TRIỀU
PHÓ TỔNG CỤC
TRƯỞNG TỔNG CỤC AN NINH – BỘ CÔNG AN VỀ
“TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH
QUYỀN NHÂN DÂN”, “TỘI PHÁ HOẠI CHÍNH SÁCH ĐOÀN
KẾT” VÀ “TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ư LÀM HƯ
HỎNG TÀI SẢN”
Kính gửi:
- Chủ tịch Nước
Nguyễn Minh Triết
- Chủ tịch Quốc hội Ng.
Phú Trọng
- Thủ tướng CP Nguyễn Tấn
Dũng
- Viện trưởng Viện Kiểm
sát tối cao Trần Quốc Vượng
- Bộ trưởng Bộ C. An Lê
Hồng Anh
Đồng kính gửi:
- TBT ĐCSVN Nông Đức Mạnh
- Thường trực Ban bí thư
TƯ ĐCS VN Trương Tấn Sang
- Trưởng ban Tuyên giáo trung
ương ĐCSVN Tô Huy Rứa
Tôi là Cù Huy Hà Vũ, Tiến sĩ
Luật, công dân Việt Nam,
HKTT tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội xin gửi
tới Quư Vị lời chào trân trọng.
Căn
cứ Điều 74 Hiến pháp (Công dân có quyền tố cáo với
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những
việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước,
đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào. Việc tố cáo phải được cơ quan
Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời
hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể và của công dân phải
được kịp thời xử lư nghiêm minh.
Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất.
Nghiêm cấm việc trả thù người tố cáo,
lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, vu
cáo làm hại người khác…) và Luật Khiếu nại, tố cáo, bằng Đơn này tôi tố cáo và
đề nghị khởi tố và truy tố Vũ Hải
Triều, Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng
Tổng cục An ninh Bộ CA về các hành vi phạm
tội như tŕnh bày sau
đây.
Từ hơn hai tuần nay,
website Bauxite Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà
văn Phạm Toàn và Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn
Thế Hùng khởi xướng đă đưa lại
thông tin mà rất nhiều trang thông tin điện tử hay
trang mạng (website và blog) cá nhân khác đă đăng
tải, theo đó tại Hội nghị toàn quốc triển khai
nhiệm vụ của các cơ quan báo chí Việt Nam năm
2010 do Ủy viên Bộ chính trị, Thường trực
Ban Bí thư trung ương Đảng Trương Tấn
Sang, Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo
trung ương Tô Huy Rứa chủ tŕ, Trung tướng
Vũ Hải Triều, Phó Tổng cục trưởng
Tổng cục An ninh, Bộ Công an, tuyên bố đă
chỉ đạo bộ phận kỹ thuật phá sập
300 báo mạng và blog cá nhân xấu!
Nếu thông tin nói trên là đúng
sự thật th́:
1. Trung tướng
Công an Vũ Hải Triều là tội phạm quốc gia
đặc biệt nghiêm trọng v́ đă trắng trợn
hủy diệt Quyền Tự do Ngôn luận, Quyền
Tự do Báo chí, Quyền được Thông tin của công
dân được quy định tại Điều 69
Hiến pháp Việt Nam, công khai chia rẽ dân tộc
bằng cách phân loại người Việt Nam theo tiêu chí
“tốt–xấu”, công khai chống đối chính sách “ḥa
hợp, ḥa giải dân tộc” của Nhà nước
Việt Nam được cụ thể hóa bằng tuyên
bố “Bất đồng chính
kiến là chuyện b́nh thường” của Chủ
tịch Nước Nguyễn Minh
Triết trong chuyến thăm Hoa Kỳ tháng 6
năm 2007, bởi chắc chắn có nhiều trong số
“300 trang mạng và blog cá nhân xấu” bị phá sập là
của người Việt Nam ở nước ngoài;
2. Trung tướng Công an
Vũ Hải Triều là tội phạm quốc gia và
quốc tế đặc biệt nghiêm trọng v́ đă
ngang nhiên xâm phạm Tuyên bố quốc tế về Nhân
quyền, xâm phạm “Quyền Tự do phát biểu quan
điểm” quy định tại Khoản 2 Điều 19
Công ước Quốc tế về những Quyền Dân sự
và Chính trị mà Việt Nam đă tham gia kư kết ngày 24-9-1982 (Mọi người đều có quyền tự do
phát biểu quan điểm;
quyền này bao gồm quyền tự do t́m kiếm,
tiếp nhận và phổ biến mọi tin tức và ư
kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn
phẩm, dưới h́nh thức nghệ thuật, hay bằng mọi
phương tiện truyền thông khác, không kể biên
giới quốc gia) và ngang nhiên xâm
phạm an ninh quốc gia của nước khác bởi
chắc chắn nhiều máy chủ trong số “300 báo
mạng và blog cá nhân xấu” bị phá sập nằm ở
nhiều nước ngoài.
Nói cách khác, với hành vi
chỉ đạo bộ phận kỹ thuật phá sập
300 trang mạng và blog cá nhân, trung tướng Công an vũ
Hải Triều đă phá hoại nghiêm trọng h́nh ảnh
của Nhà nước Việt Nam trong con mắt quốc
nội và quốc tế bằng cách biến Nhà nước
Việt Nam thành Nhà nước Tội phạm Tin tặc
& Vi phạm Nhân quyền. Do đó hành vi của Trung
tướng Công an Vũ Hải Triều dứt khoát là
hoạt động nhằm lật đổ Chính quyền
nhân dân nếu Nhà nước Việt Nam là Chính quyền
của Nhân dân (nếu không phải th́ thôi)!
Tuy nhiên không loại trừ việc
các thế lực thù địch với Tổ quốc
Việt Nam, thù địch với Dân tộc Việt Nam, các
thế lực rắp tâm phá hoại uy tín và sức mạnh
của Lực lượng an ninh Việt Nam trung thành
tuyệt đối với Tổ quốc và Nhân dân Việt
Nam, kiên quyết chống lại các thế lực “phản
Nước hại Dân” đă bịa đặt thông tin tày
trời nói trên.
Do đó, ngày 16-5-2010 tôi đă
gửi bằng đường bưu điện một
bức thư cho Trung tướng CA Vũ Hải Triều
đồng thời nhờ Bauxite Việt Nam đăng
bức thư này trong đó ghi rơ: “Sau
một tuần kể từ hôm nay mà tôi không nhận
được thư trả lời của ông,
điều này đồng nghĩa với việc ông công
nhận thông tin “Trung tướng Vũ Hải Triều, Phó
Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ
Công an tuyên bố đă chỉ đạo bộ phận
kỹ thuật phá sập 300 báo mạng và blog cá nhân
xấu” là đúng sự thật!”
Điều 2
Hiến pháp quy định: “Nhà nước Cộng ḥa Xă
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, v́ Nhân dân” và Điều 3 Hiến pháp quy
định: “Nhà nước nghiêm trị mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Nhân dân”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đă nói: “Các cơ quan của
Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng
đều là công bộc của dân”. V́ vậy, công dân có
quyền chất vấn công chức khi có chứng cứ
cho rằng công chức đó đă, đang và sẽ có hành
vi xâm phạm lợi ích của Nhân dân đồng nghĩa
xâm phạm lợi ích của Nhà nước. Như vậy,
Trung tướng Vũ Hải Triều, Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục An ninh – Bộ Công an phải có
nghĩa vụ trả lời chất vấn của công dân
Cù Huy Hà Vũ.
Tuy
nhiên đă quá hạn một tuần (từ 24-5-2010)
nhưng tôi, Cù Huy Hà Vũ, không hề nhận
được văn bản trả lời của Trung
tướng Công an Vũ Hải Triều và điều này
có nghĩa Trung tướng Công an Vũ Hải Triều
đă chính thức công nhận thông tin “Trung tướng
Vũ Hải Triều, Phó Tổng Cục trưởng
Tổng cục An ninh – Bộ Công an tuyên bố đă
chỉ đạo bộ phận kỹ thuật phá sập
300 báo mạng và blog cá nhân xấu” là đúng sự thật!
Với
tố cáo trên, tôi đề nghị Quư vị
1. Chỉ đạo
các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố
bị can và truy tố Trung tướng Vũ Hải
Triều, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An
ninh – Bộ Công an về hành vi “hoạt động nhằm
lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79
(Tội hoạt động nhằm lật đổ Chính
quyền nhân dân – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia),
hành vi “chia rẽ dân tộc” theo Điều 87 Bộ
Luật h́nh sự (Tội phá hoại chính sách đoàn
kết – Các Tội xâm phạm an ninh quốc gia) và hành vi
“hủy hoại hoặc cố ư làm hư hỏng tài
sản của công dân” theo Điều 143 Bộ Luật h́nh
sự (Tội hủy hoại hoặc cố ư làm hư
hỏng tài sản – Các tội xâm phạm sở hữu)
bởi các trang thông tin điện tử cá nhân (website và
blog) cá nhân là tài sản cá nhân.
Mức án cho người
phạm “Tội hoạt động nhằm lật
đổ Chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ
Luật h́nh sự là từ 12 năm đến tử h́nh.
Mức án cho người người phạm “Tội phá
hoại chính sách đoàn kết” theo
Điểm b Khoản 1 Điều 87 Bộ Luật h́nh
sự là từ 5 năm đến 15 năm.
Tính trung b́nh một trang thông tin
điện tử hay trang mạng (website, blog) cá nhân có giá
trị tối thiểu là 2.000.000 đồng (hai triệu
VND) th́ giá trị thiệt hại mà Vũ Hải Triều
gây ra cho các chủ sở hữu 300 trang thông tin điện
tử bị Vũ Hải Triều chỉ đạo phá
sập là 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu VND). Do
đó, mức án cho người phạm “tội hủy
hoại hoặc cố ư làm hư hỏng tài sản” theo Khoản 4 Điều 143 Bộ Luật
h́nh sự (gây thiệt hại cho tài sản có giá trị
từ 500 triệu đồng trở lên, gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng) là từ 12 năm
đến tù chung thân.
Tổng hợp các
h́nh phạt của 3 tội danh trên, tôi đề nghị án
tù chung thân cho Vũ Hải Triều. Nếu
các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu, tôi sẵn sàng tham gia hỏi cung Vũ Hải
Triều về các hành vi phạm tội của Vũ
Hải Triều như trên
đă đề cập!
2.
Tước cấp bậc hàm sĩ quan Công an, cách chức
của Vũ Hải Triều theo Điều 25 và
tước Công an hiệu của Vũ Hải Triều theo
Khoản 3 Điều 41 Luật Công an nhân dân.
Đó là chưa nói về mặt
nghiệp vụ, bắt buộc phải sa thải Vũ
Hải Triều. Thực vậy, sĩ quan an ninh là
“sống để bụng, chết mang theo” chứ với
cái kiểu “chưa khảo đă xưng” như Vũ
Hải Triều th́ An ninh quốc gia của Việt Nam
đă, đang và chẳng mấy chốc bị “phá
sập”!
Tôi chân thành cảm ơn và
đề nghị Quư vị giải quyết Tố cáo này
của tôi theo quy định của Luật Khiếu
nại, tố cáo.
Người
tố cáo
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà
Vũ
24 Điện Biên Phủ, Hà
Nội
Chiều
ngày
Chúa nhật
06-06-2010, Linh mục Giuse Nguyễn Văn Phượng, Ḍng Chúa
Cứu Thế Thái Hà (Hà Nội) đă làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay Nội
Bài để sang Rôma dự Thánh lễ bế mạc Năm
thánh Linh mục do Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI chủ sự (ngày 11-06-2010), th́ đă bị an ninh sân bay không cho phép xuất
cảnh, theo lệnh của công an TP. Hà Nội.
Tiếp
đó, trong một cuộc phỏng vấn, Linh mục
Phượng đă cho biết như sau: Khi làm mọi thủ
tục ở chỗ gửi hành lư th́ không có vấn
đề ǵ, tất cả đều xuôi thuận. Lúc vào
pḥng kiểm tra an ninh th́ anh An, nhân viên pḥng, cầm passport
của Linh mục đi hỏi một ai đó. Sau
đấy Linh mục được mời vào pḥng trong
để được cho biết là ḿnh không thuộc diện
được xuất cảnh! Linh mục Phượng
hỏi có tội ǵ th́ các viên công an (gồm anh Quang,
trưởng pḥng, anh An, nhân viên, anh Nam công an Nội Bài)
chỉ nói là công an TP Hà Nội đề nghị không cho
Linh mục được xuất nhập cảnh, thế
thôi.
Lúc ấy, Linh mục
Phượng đi cùng với ba Linh mục thuộc
Tổng Giáo phận Hà Nội, nhưng ba vị kia th́ đi
được, riêng Linh mục th́ không. Công an trưng ra
một biên bản trong đó nói đến Điều 21
Nghị định 136/2007/ NĐCP của chính phủ CSVN về
xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam,
và ghi rơ: Linh mục Phượng không có, không
được ở trong diện xuất nhập cảnh.
Họ c̣n nói thêm: “Nếu muốn hiểu rơ hơn th́
gặp công an TP Hà Nội”. Linh mục hỏi là cần
gặp cấp nào thuộc công an Hà Nội th́ các nhân viên
trả lời bâng quơ: “Chúng tôi cũng chỉ thừa
lệnh là dừng xuất, nhập cảnh của anh thôi”!?!
Một điều gây thắc
mắc là tại sao công an không gởi trước văn
thư này mà đợi khi Linh mục ra sân bay mới
gởi? Trước đây, Linh mục Phượng có lần
đi Úc mà chẳng gặp vấn đề ǵ cả. Và
trong cái passport vẫn c̣n con dấu của Úc và của phi
trường Tân Sơn Nhất (Sài G̣n). Linh mục
Phượng cho biết: “Chính Đại sứ quán Ư đă
cấp visa cho tôi và bây giờ ra đến sân bay mới hay
chuyện bị chặn. Xin các ông cho biết rơ lí do cụ
thể…” Nhưng công an chỉ trả lời lấp
liếm, không nêu rơ bất cứ lư do nào.
Thật
ra ai cũng biết từ lâu rằng các Linh mục DCCT Thái
Hà là cái gai trong mắt nhà cầm quyền Hà Nội kể
từ vụ giáo xứ Thái Hà đấu tranh đ̣i lại
đất đai kể từ đầu năm 2008. Và cái
tṛ chặn ở sân bay th́ CS
đă chơi nhiều lần với các nhà đấu tranh
tại VN.
Viết lại theo
Truyền
thông Ḍng Chúa Cứu Thế Việt Nam
về việc Nhà cầm
quyền CSVN đă bắt giam giữ trái công luật
quốc tế lần thứ 4 từ ngày 18-2-2007
đến thời hạn không rơ ràng
Huế, Việt Nam, ngày 08-6-2010
Kính gửi :
- Ṭa án Nhân quyền của
Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.
- Các Tổ chức Nhân
quyền quốc tế.
Đồng kính gửi :
- Ông Nguyễn Minh
Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam.
- Ông Nguyễn Tấn
Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam.
Kính
thưa quí Vị,
Tôi
là tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lư, Linh
mục thuộc Tổng giáo phận Huế, Giáo hội Công
giáo Rôma, đang bị quản chế và điều trị
bệnh tại Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận
Huế, 69 Phan Đ́nh Phùng, Huế, Việt Nam, muốn tŕnh
bày với quí vị các khiếu kiện sau đây :
I.
Tiến tŕnh chịu bất công : 4 lần, 17 năm tù giam
và 7 lần, 14 năm quản chế :
1-
Ngày 18-8-1977 tôi bị NCQ CSVN bắt giam tại trại
tạm giam Thừa Phủ, Huế (18-8-1977-24-12-1977).
Lư do là tôi phổ biến 2 bài phát biểu của
Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền
rằng Việt Nam chưa có Tự do Tôn giáo thực
sự, trong 2 Hội nghị do chính NCQ CSVN tổ chức
năm 1977. Sau đó tôi bị quản chế ở Nhà chung
Tổng giáo phận Huế gần 01 năm (1977-1978) và
tại giáo xứ Đốc Sơ, Hương Sơ,
Huế 2 năm (1981-1983).
2-
Cuối năm 1983 tôi bị NCQ CSVN kết án 10 năm tù, 3
năm quản chế và bắt giam tại trại tạm
giam Thừa Phủ, Huế; 2 “trại cải tạo” K1,
Thanh Cẩm, Thanh Hóa, và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam
(18-5-1983-29-7-1992); cướp đoạt của
tôi 4 thùng sách quí, một số máy ghi âm và phát thanh mà không có một
biên bản nào. Lư do là ngày 13-8-1981, tôi đă hướng
dẫn giáo hữu đứng bên lề đường
nguyện kinh 4 lần, khi chúng tôi đi hành hương kính
Đức Mẹ La Vang, nhưng bị Công an CSVN ngăn
chặn, để khai thông tuyến giao thông cho các giáo
hữu hành hương dịp Lễ Đức Mẹ
Về Trời 15-8-1981. Sau đó, tôi bị quản chế
ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 3 năm (1992-1995)
và bị quản chế ở Nhà thờ Nguyệt Biều,
Huế hơn 5 năm (1995-2001) v́ đă viết bản Tuyên
ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo G. phận
Huế ngày 24-11-1994.
3-
Cuối năm 2001, tôi bị NCQ CSVN kết án 15 năm tù, 5
năm quản chế và bắt giam trại tạm giam
Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim
Bảng, Hà Nam (18-5-2001-07-2-2005); cướp
đoạt của tôi một số sách quí cũng không
để lại một biên bản nào. Lư do là từ ngày
12-2-2001 đến ngày 17-5-2001, tôi đă hướng dẫn
giáo hữu An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên–Huế
hiểu biết đôi chút về Tự do Tôn giáo, Tự do
Ngôn luận, Tự do Ứng cử Bầu cử, về
Chính trị Công dân (bênh vực công lư, nhân quyền, nhân
phẩm) khác với Chính trị Đảng phái (giành
quyền quản lư và lănh đạo Đất
nước) như thế nào. Sau đó, tôi bị quản
chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 2 năm
(2005-2007) và bị quản chế ở Nhà thờ Bến
Củi, Phong Xuân, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế
hơn 1 tháng (25-2-2007–29-3-2007).
4-
Ngày 30-3-2007, tôi bị NCQ CSVN kết án 8 năm tù, 5 năm
quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa
Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà
Nam. (29-3-2007-15-3-2010); cướp
đoạt của tôi rất nhiều sách báo, tài liệu và
máy móc (mà lần này tôi đang đ̣i lại như sẽ
tŕnh bày ở mục III.A. 1.a, 1.b, 1.c, 2.a, 2.b, 2.c, 2.d.
dưới đây). Lư do là từ ngày 07-02-2005 đến
ngày 18-2-2007, tôi đă phổ biến các tài liệu phơi bày
sự thật về Ông Hồ Chí Minh và các tài liệu
về công lư, dân chủ, nhân quyền; biên soạn và phát hành
bán nguyệt san Tự do Ngôn luận; đồng thành
lập Khối 8406 với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho
Việt Nam ngày 8-4-2006; ủng hộ và giới thiệu
đảng Thăng Tiến Việt Nam.
V́ tôi bị rối loạn
huyết áp, dẫn đến tai biến mạch máu năo 3
lần (25-5-2009; 12-7-2009; 13-11-2009), lần thứ 3, NCQ CSVN
đưa tôi lên Hà Nội cấp cứu và ngày 15-3-2010
tạm đ́nh chỉ thi hành án 12 tháng, đưa tôi về
điều trị bệnh liệt nửa người bên
phải do tai biến rối loạn huyết áp, tại Nhà
hưu dưỡng Nhà Chung Tổng giáo phận Huế, 69
Phan Đ́nh Phùng, Huế, Việt Nam.
Dưới
chế độ CSVN, từ năm 1977 đến nay, tôi
đă ở tù 4 lần, 17 năm; bị quản chế 7
lần, 14 năm. Theo pháp luật của NCQ CSVN, tôi vẫn
c̣n phải ở tù 5 năm và bị quản chế thêm 5
năm nữa.
Sau
3 lần ở tù và 6 lần bị quản chế
trước đây, tôi đă phớt lờ các bất công
tôi phải gánh chịu, để dành thời giờ cho
Sự nghiệp đấu tranh cho công lư, nhân quyền,
tự do dân chủ cho Đồng bào Việt Nam. Nhưng
lần này, tôi kính nhờ quí vị làm sáng tỏ các bất
công tôi phải gánh chịu, để góp phần ngăn
chặn NCQ CSVN tiếp tục đàn áp các Chiến sĩ
Dân chủ Ḥa b́nh đang trực diện đấu tranh cho
Công lư, Sự thật, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân tộc
Việt Nam.
II.
Các cơ sở pháp luật để khởi kiện :
A.
Căn cứ công pháp quốc tế :
1.
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự
và Chính trị của Liên Hiệp quốc ngày 16-12-1966,
VN xin tham gia ngày 24-9-1982 qui định :
-
Điều 19,2 : Mọi
người đều có quyền tự do phát biểu quan
điểm; quyền này bao gồm quyền tự do t́m
kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin
tức và ư kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay
ấn phẩm, dưới h́nh thức nghệ thuật,
hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác,
không kể biên giới quốc gia.
-
Điều 22,1 : Ai cũng có
quyền tự do lập hội, kể cả quyền
thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để
bảo vệ quyền lợi của ḿnh.
2.
Tuyên ngôn Quốc tế bảo vệ Những người
Đấu tranh cho Nhân quyền ngày 09-12-1998 :
-
Điều 5 : Nhằm thăng
tiến và bảo vệ quyền con người và các
tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân
ḿnh hay liên hợp với những người khác,
đều có quyền trên b́nh diện quốc gia hay quốc
tế : a- Hội họp và tụ họp một cách
thuần ḥa; b- Thành lập những tổ chức,
những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia
nhập và tham dự vào những tổ chức, hội
đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.
-
Điều 7 : Mỗi
người, tự cá nhân ḿnh hay liên hợp với
những người khác, đều có quyền dự
kiến những nguyên tắc mới và những ư kiến
trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân
quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết
về nhân quyền.
-
Điều 8,1 : Mỗi
người, tự cá nhân ḿnh hay liên hợp với
những người khác và trên căn bản không phân
biệt đối xử, đều có quyền tham gia
hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào
việc quản lư việc công.
-
Điều 8,2 : Nhất là
quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân ḿnh hay liên hợp
với những người khác, đệ tŕnh các cơ
quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các
cơ cấu đảm lănh việc công, những phê phán và
những đề nghị nhằm cải thiện sự
tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi
mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại
hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và
thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.
-
Điều 12,1 : Mỗi người, tự cá nhân
ḿnh hay liên hợp với những người khác
đều có quyền tham gia các hoạt động ḥa b́nh
để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân
quyền và các tự do căn bản.
3.
Luật Kư kết, Tham gia và Thực hiện Điều
ước Quốc tế, do nước Cộng ḥa
Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24-6-2005,
hiệu lực ngày 01-01-2006, qui định tại “Điều
6 Điều ước Quốc tế và qui định
pháp luật trong nước” :
-
6,1 : Trong trường hợp
văn bản qui phạm pháp luật trong nước và
điều ước quốc tế mà Cộng ḥa Xă
hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui
định khác nhau về cùng một vấn đề th́
áp dụng qui định của điều ước
quốc tế.
-
6,2 : Việc ban hành văn
bản qui phạm pháp luật phải bảo đảm
không làm cản trở việc thi hành điều
ước quốc tế mà Cộng ḥa Xă hội Chủ
nghĩa VN là thành viên có qui định về cùng một
vấn đề.
Nghĩa
là mọi người lương thiện đều
hiểu rất rơ về 2 điều luật trên đây
rằng : Khi có điều
nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên
Hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công
ước Quốc tế, th́ phải áp dụng Công
ước Quốc tế là Văn bản pháp lư có gí
trị ràng buộc cao hơn.
B.
Căn cứ nhân chứng lịch sử :
1.
Karl Marx : Cách đây # 170 năm, Ông Karl Marx viết
bộ Tư Bản Luận, Tuyên ngôn đảng Cộng
sản tại thủ đô London, đế quốc Anh,
không hề bị bắt.
2.
Nhóm Nguyễn Ái Quốc : Cách đây # 100 năm, nhóm
Nguyễn Ái Quốc gồm nhà yêu nước Phan Chu Trinh,
Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh,
Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích,
Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự,
Nguyễn Tất Thành viết sách, báo chống lại
chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô
Paris, không hề bị bắt.
3.
Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay
tại Việt Nam : Cách đây # 90 năm, cụ Huỳnh
Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế
năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche
fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài G̣n
năm 1923. Cả 2 Ông đều không bị Thực dân Pháp
bắt v́ dám làm báo chống lại Pháp. Thời đó, riêng
tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên Cộng
sản, nếu đấu tranh bất bạo động,
dù công khai, vẫn không bị bắt.
Cho
đến hôm nay, trong cả 4 lần tôi bị bắt,
bị kết án, bị nhốt tù 17 năm và trong 7 lần
bị quản chế 14 năm, 5 năm tù giam và 5 năm
quản chế c̣n tạm đ́nh chỉ thi hành, tôi
đều hoàn toàn vô tội, v́ tôi luôn chỉ làm
những ǵ Công luật quốc tế cho phép mà Pháp luật
NCQ CSVN phải áp dụng, nếu NCQ CSVN muốn c̣n là thành
viên của Liên hiệp quốc. Trái lại, khi bắt giam,
kết tội, quản chế tôi và chiếm đoạt
các vật dụng của tôi, chính NCQ CSVN đă ngang nhiên
vi phạm nghiêm trọng các Công ước quốc tế mà
NCQ CSVN đă xin tham gia, kư kết và hứa sẽ thực
hiện, nhưng không hề tuân giữ trong suốt 65
năm qua.
V́
thế, tôi kính nhờ quí vị giúp tôi sao cho thật
hiệu quả trong việc đ̣i buộc NCQ CSVN phải
nghiêm túc chấp hành thực hiện :
III.
Mục tiêu khởi kiện Nhà cầm quyền Cộng
sản Việt Nam :
A.
Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
trả lại tôi :
1.
Tu phục, Chuỗi kinh và kính mắt tôi đang mang trên
người :
1.a. Một
chiếc áo linh mục đen dài tôi đang mặc :
Chiều 29-3-2007, một sĩ quan công an tỉnh Thừa
Thiên–Huế đến Pḥng thánh Nhà thờ Bến Củi
mời tôi ra trụ sở thôn Bến Củi làm việc.
Tôi vừa mở cửa pḥng tức khắc một lực
lượng công an vũ trang hơn 30 người tràn vào
pḥng tôi, lấy một tấm vải lớn màu xanh da
trời trùm tôi lại và ôm tôi nhét vào xe công an như một
bao tải, chở ngay về trại tạm giam Thừa
Phủ, Huế. Tại đây, họ lột áo linh mục,
tước đoạt một tràng chuỗi Mân Côi và
một cái kính viễn thị đeo mắt.
1.b. Một
tràng chuỗi Mân Côi nói trên tôi dùng để nguyện kinh.
1.c. Một
cái kính viễn thị đeo mắt nói trên tôi dùng
để đọc sách báo.
2.
Các vật dụng tôi đang sử dụng để
phục vụ cho Công lư, Nhân quyền :
2.a. 6 máy
Personal Computers (Laptops) hiệu HP, TOSHIBA, ACER mà # 20 Công an
tỉnh Thừa Thiên–Huế đă cướp đoạt
của tôi tại pḥng số 5, khu nhà Hưu dưỡng
thuộc Nhà Chung TGP Huế tối 18-2-2007, có Linh mục
An-tôn Nguyễn Văn Thăng, Thư kư Ṭa TGM Huế
chứng kiến và cùng kư tên vào biên bản.
2.b. 6 máy in
Laser hiệu CANON trong trường hợp như trên.
2.c. 6
điện thoại di động hiệu NOKIA, SAMSUNG, MOTOROLA
và # 120 Simcards trong trường hợp như trên.
2.d. Gần
200 sách, báo, bài viết (mỗi loại hàng chục bản)
về Công lư, Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Bầu
cử, sự thật về Ông Hồ Chí Minh và về
đảng CSVN trong trường hợp nói trên. Khi
cướp đoạt và mang đi, các Công an đă
đựng số tài liệu này trong 6 thùng giấy lớn.
B.
Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
phải bồi thường :
1.
Các thiệt hại vật chất :
1.a. Tất
cả các vật dụng cá nhân của tôi đă nêu ở các
tiểu mục 2.a, 2.b, 2.c, 2.d của mục III.A.2. trên
đây.
1.b. Nếu
các thiết bị và máy móc đó đă bị hư hỏng
th́ NCQ CSVN phải bồi hoàn cho tôi 200 triệu VNĐ theo
thời giá hiện nay (2010).
1.c. Riêng các
vật dụng ở các tiểu mục 1.a,1.b,1.c,2d. của
mục III.A.1.và 2. th́ NCQ CSVN phải hoàn trả tôi đúng
các vật dụng mà NCQ CSVN đă chiếm đoạt trái
phép của tôi.
1.d. Về 3
năm ở tù biệt giam một ḿnh, kèm theo bệnh
rối loạn huyết áp phát sinh 4 lần (gần đây
có thêm 1 lần vào tháng 5-2010) tai biến mạch máo năo, làm
tôi bị liệt nửa người bên phải, NCQ CSVN
phải bồi thường cho tôi ít nhất là 10 tỉ
VNĐ hiện hành.
2.
Các thiệt hại tinh thần :
Chỉ
cần một lời xin lỗi của Nhà cầm quyền
Cộng sản Việt Nam, 01 (một) VNĐ danh dự;
chấm dứt mọi hành động đàn áp, bắt
bớ, tù đày tất cả các Chiến sĩ Ḥa b́nh
đang đấu tranh cho Công lư, Tự do, Dân chủ cho
Việt Nam và trả tự do ngay, vô điều kiện,
tất cả các Chiến sĩ Ḥa b́nh đang bị giam
cầm trong các trại giam của Nhà cầm quyền
Cộng sản Việt Nam.
Nguyện
xin T.Chúa luôn chúc lành trên thiện tâm phục vụ công lư ḥa
b́nh cho Nhân loại của tất cả quí vị.
Xin
trân trọng kính chào và chân thành cảm ơn tất cả
quí vị.
Khởi kiện từ Nhà Hưu
dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế
69 Phan Đ́nh Phùng, Huế, VN
Tù nhân lương tâm Tađêô
Nguyễn Văn Lư
Linh
mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Việt Nam.
Mặc
dù một số địa phương ở Thừa
thiên–Huế bị sách nhiễu, nhưng do sự quyết
tâm của chư Tăng Ni và Phật tử Huế
Đại lễ Phật đản tại thành phố
đă được trang nhiêm và hùng tráng tiến hành.
Theo bản tường tŕnh
của Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất Thừa thiên–Huế viết
ngày 6-6-2010, th́ “Khuôn hội
và Gia đ́nh Phật tử Ḥa Đa Tây thuộc xă Phú
Đa, huyện Phú Vang, đă bị Chính quyền và Công an
đến hạch xách ngay trong ngày Phật đản,
lập biên bản tịch thu lịch Xuân Canh Dần
của Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN, treo
tại Niệm Phật đường, sau đó đă
lừa gạt quí Bác, cầm 2 biên bản ra về mà không
giao cho Khuôn hội một bản như thỏa thuận
ban đầu”.
“Ngày
02-6-2010, Chính quyền và Công an cũng đă dàn cảnh
tương tự tại Niệm Phật
đường Hà Úc thuộc xă Vinh Thanh và Niệm Phật
đường An Bằng thuộc xă Vinh An, bắt
buộc quí Bác phải giao nộp bản lịch Xuân Canh
Dần của Hội đồng Lưỡng viện.
Chính quyền cũng xuất chiêu lừa đảo như
tại Ḥa Đa Tây nên đă cướp biên bản tại
An Bằng. Đây là một hành động phi pháp, xâm
phạm trắng trợn quyền tự do Tôn giáo,
đồng thời quấy rối cuộc sống tu hành
của Đồng bào Phật tử, nhất là trong mùa
Phật đản”.
Tại Huế, th́ ngay từ ngày
14-5, Thông điệp Phật đản PL 2554 của
Đức Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng
Độ, Xử lư Thường vụ Viện Tăng
thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa đạo
GHPGVNTN được ban hành khắp nơi cho đồng
bào Phật tử. Song song với việc phổ biến
Thông điệp, Ban Đại diện GHPG VNTN Thừa Thiên
Huế đă ra Thông bạch Phật đản do Ḥa
thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Đại diện
ấn kư, gởi đến Chư tôn Ḥa thượng,
Thượng tọa Đại đức Tăng Ni cùng
đồng bào Phật tử các giới trong và ngoài
nước để biết lịch tŕnh thực hiện
Đại lễ Phật đản PL 2554 tại Cố
đô Huế. Ḥa thượng kêu gọi qua Thông Bạch:
- “Tăng Ni Phật tử chúng ta,
tự sách tấn nhau, nỗ lực thực hành
Giới-Định-Tuệ, giữ ǵn tam nghiệp
để trang nghiêm tự thân, bảo vệ chánh pháp. Các
hàng cư sĩ Phật tử nên phát nguyện ăn chay suốt
tuần Lễ Phật đản, để tực
hiện hạnh Từ bi của người Phật
tử đối với muôn loài chúng sanh.
- “Các Tổ đ́nh, Tự viện,
Tu viện, Phật học viện, Tịnh thất,
Tịnh xá, các Niệm Phật đường, Khuôn Giáo
hội, các đơn vị Gia đ́nh Phật tử, các
Đạo tràng tu học… khai kinh và luân phiên tụng
niệm suốt tuần lễ Phật đản. Cố
gắng tham dự tụng kinh Pháp Hoa vào mỗi buổi
chiều, từ mồng 8 đến 14-4 Canh Dần, góp
phần cầu nguyện mưa thuận gió ḥa, quốc thái
dân an, tưởng niệm Chư thánh Tử đạo,
hồi hướng công đức các bậc Tiền
bối đă cống hiến công sức cho Đạo pháp,
các Chiến sĩ đă bỏ ḿnh v́ đại nghĩa Dân
tộc. Tùy hoàn cảnh thực tế, tổ chức Đại
lễ Phật đản trang nghiêm và thích hợp cho
đơn vị ḿnh.
- “Các tư gia Phật tử treo
cờ đèn cúng dường Phật đản, phát
nguyện phóng sanh, tham gia các công tác từ thiện, giữ
ǵn môi trường, giúp đỡ người nghèo,
người khuyết tật, trong khả năng có thể
của ḿnh.
“Trong tuần Lễ Phật
đản, chúng ta luôn hướng tâm:
- “Cầu nguyện cho Quốc thái Dân an.
-
“Cầu nguyện cho GHPGVNTN được sớm
phục hoạt.
-
“Cầu nguyện cho Đại lăo Ḥa thượng Thích
Quảng Độ, Xử lư Thường vụ Viện
Tăng thống, kiêm Viện trưởng Viện Hóa
đạo GHPG VNTN sớm có tự do, hành đạo.
“Trong tuần Lễ Phật
đản, nếu có đơn vị hoặc cá nhân nào
gặp khó khăn trở ngại, cấm đoán, khủng
bố, ngăn chận, xin khẩn báo về Ban Tổ
chức để kịp thời can thiệp”.
Lễ
đài Phật đản được thiết trí trên
sân chính của Tổ đ́nh Quốc Ân, có hai tầng
rất uy nghi, trên Lễ đài có Tượng Đản
sanh ngự trên ṭa sen, dưới ṭa sen là quả
địa cầu với ư nghĩa Phật giáo là tôn giáo
của tất cả chúng sanh trên hoàn vũ. Và trên quả
địa cầu chuyển động có hàng chữ Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, biểu
thị một Giáo hội bị cấm đoán tại
Việt Nam nhưng có mặt khắp nơi trên thế
giới mang tâm nguyện thiết tha Ḥa b́nh, Bao dung và An
lạc như Thông điệp Phật đản 2554 đă
tuyên dương.
Đồng thời với
việc thiết trí Lễ đài, Ban Hướng dẫn
Gia đ́nh Phật tử Thừa Thiên đă thực
hiện khu trại Hộ lễ với một cổng
trại uy nghi bên phía trái Lễ đài. Và Gia đ́nh Phật
tử Đồng Chơn đă thực hiện khu trại
bảo vệ, trật tự và y tế bên phải Lễ
đài rất sinh động.
Từ ngày 22-5, Ban Hướng
dẫn Gia đ́nh Phật tử Thừa Thiên đă tổ
chức Lễ thọ Cấp tín cho 25 Huynh trưởng tân
thăng không về được chùa Giác Hoa trong dịp
mồng 10 tháng chạp vừa qua, và Lễ thọ Cấp tập
cho 28 Huynh trưởng tân thăng Phật lịch 2554.
Lễ Thọ Cấp đặt dưới sự
chứng minh của Thượng toạ Thích Minh
Đức, Đặc ủy Thanh niên Ban Đại
diện GHPGVNTN Thừa Thiên-Huế. Đây là một quyết tâm
rất lớn thể hiện niềm tin của lớp
trẻ đối với GHPGVNTN do Đại lăo HT Thích
Quảng Độ lănh đạo.
Sang ngày 26-5, vào lúc 16 giờ, các
Huynh trưởng Gia đ́nh Phật tử Thừa Thiên
được điều động vân tập tại
Đài Kỷ niệm Thánh Tử đạo (ngay chân cầu
Trường Tiền, đối diện khách sạn Morin)
để cung đón Chư tăng đến đặt
ṿng hoa tưởng niệm như thông lệ hằng
năm. Phái đoàn Chư tăng do ba vị Ḥa
thượng Thích Như Đạt, Thích Diệu Tánh và Thích
Thiện Hạnh dẫn đầu đến địa
điểm hành lễ giữa hàng rào danh dự của Gia
đ́nh Phật tử.
Ṿng hoa mang ḍng chữ: Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất - THÀNH KÍNH
TƯỞNG NIỆM CHƯ ANH LINH THÁNH TỬ ĐẠO được đặt chính giữa
Đài Kỷ niệm, trong khi ấy chư Tăng và
Phật tử quỳ xuống dâng hương và nghe
lời truy tán của Ḥa thượng Thích Thiện
Hạnh, Chánh Đại diện GHPGVNTN/Thừa thiên-Huế.
Trong khuôn khổ Mùa Phật
đản, lễ Thọ An cư của Chư tăng
trực thuộc GHPGVNTN tại Thừa Thiên -Huế được cử hành long
trọng vào lúc 8 giờ sáng ngày 14-4 Canh Dần, tức 27-5,
sau lễ Bố Tát hằng tháng. Tại Giới
trường Linh Quang, sau phần nghi lễ là Giáo từ
của Ḥa thượng Chánh Đại diện. Ḥa thượng
nhắc nhở rằng : “Trải qua bao đời thịnh suy
của thế cuộc, giới luật luôn luôn là mạng
mạch của chánh pháp. Giới luật c̣n th́ Phật pháp
c̣n, Phật pháp c̣n th́ hạnh nguyện độ sanh
của bậc trưởng tử Như Lai mới
được viên măn”.
Năm nay tổng số Tăng
tham dự thọ An cư tại Giới trường Linh
Quang là 110 vị Tỳ kheo và 65 vị Sa di gây tạo
niềm tin cho thất chúng Phật tử trong mùa Phật
đản Phật Lịch 2554.
Sau những ngày đầu hè
khắc nghiệt, oi nồng trùm lên đất Thần Kinh,
đột nhiên sáng nay, ngày Rằm tháng Tư, không khí
dịu mát một cách bất thường như trời
đất giao ḥa cùng hơi thở của nhân loại chào
mừng Đấng Đại giác ra đời.
Tờ mờ sáng, từng
đoàn Phật tử ở tận cực Nam của
Thừa Thiên-Huế, sát chân đèo Hải Vân như
Lăng Cô, Nước Ngọt, Cầu Hai… đă lên
đường hướng về Tổ đ́nh Quốc
Ân nơi tôn trí Lễ đài Phật đản của
GHPGVNTN.
Và phía cực Bắc, sát biên
Quảng Trị, các đơn vị Hải Nhuận,
Thế Chí Tây, Phước Nguyên… cũng đă lần
lượt theo Quốc lộ 1 thành kính tiến về
Tổ đ́nh Quốc Ân cho kịp giờ hành lễ.
Đúng 6 giờ, các đơn
vị Hương Trà, Phong Điền, Quảng
Điền, Phú Vang, Phú Lộc, Hương Thủy cùng các
đơn vị thuộc thành phố Huế đă vân
tập đầy đủ để chuẩn bị cho
buổi lễ chính thức: Kỷ niệm lần thứ
2634 năm Đức Thế tôn thị hiện cơi Ta bà.
Đến 6g30 phút, đại
chúng cung đón Chư tôn Ḥa thượng, Thượng
tọa, Đại đức, Tăng Ni do ba vị Ḥa
thượng Thích Như Đạt, Thích Diệu Tánh và Thích
Thiện Hạnh dẫn đầu quang lâm Lễ đài
giữa hai hàng rào danh dự của Huynh trưởng Gia
đ́nh Phật tử.
Thượng tọa Thích Khế
Viên thiết tha tuyên đọc Cảm niệm Đản
sanh gieo vào ḷng người mối cảm hoài sâu sắc
trong không khí ban mai của ngày Khánh đản. Khi Chư
tăng đă vào vị trí tại Lễ đài,
Thượng tọa thông qua Chương tŕnh Đại
lễ Phật đản. Nhằm đề pḥng phá sóng âm
thanh cũng như cắt điện như đă xẩy
ra trong quá khứ, năm nay Ban Tổ chức dùng micro dây và
chạy máy nổ để chủ động nguồn
điện trong suốt thời gian hành lễ.
Ḥa thượng Thích Như
Đạt, Tổng vụ trưởng Tổng vụ
Tăng sự Viện Hóa đạo GHPGVNTN, tuyên đọc
Thông điệp Phật đản của Đại lăo
Ḥa thượng Thích Quảng Độ, Xử lư
Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện
trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN.
Huế của Phong trào tiên phong
Chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX,
nơi đào luyện hàng lănh đạo Tăng Ni ưu tú,
hàng Cư sĩ hộ pháp kiên cường; Huế của
những ngày tháng oanh liệt đứng lên đ̣i hỏi
quyền tự do tín ngưỡng và nhân quyền; Huế
của sự xuống đường bốn mươi
ngh́n người đ̣i hỏi tự do dưới
thời Cộng sản; Huế bị độc tài bóp
siết tiếng nói nhưng tiếng tim đập của
đạo Từ bi vẫn vang ḍn lời Chúc sinh… Huế
sáng nay bỗng đón chào ba hồi chiêng trống Bát Nhă
như một sự tái sinh qua Ngày Khánh đản với
Thông điệp Phật đản. Giữa lúc đó, Gia
đ́nh Phật tử Thừa Thiên dâng những đoá hoa
lên Lễ đài cúng dường Phật đản, và
Thượng tọa Thích Vân Đức cung tuyên Pháp ngữ
Đản sanh, đại chúng ḥa chung lời xưng tán
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, rồi tuyên tụng bài
Kinh Khánh Đản, đồng tụng Tam Tự Qui và
Tứ Hoằng Thệ Nguyện.
Cuối cùng, Hoà thượng
Thích Thiện Tánh, thay mặt Ban Đại diện GHPGVNTN
Thừa thiên–Huế và Ban Tổ chức đọc lời
cảm tạ Chư tôn Đức Tăng Ni và Đồng
bào Phật tử đă góp phần công đức vào
việc thực hiện Đại lễ Phật
đản PL 2554, mà cao điểm nhất là sự
hiện diện của hàng ngàn Tăng Ni và Phật tử
tại Lễ đài trong tinh thần ḥa hợp và thanh
tịnh biểu thị thập phần viên măn của
Đại lễ Phật đản năm nay.
TỰ
DO NGÔN LUẬN
Bán nguyệt san ra ngày
1 và 15 mỗi tháng
IN VÀ TẶNG TẠI VN
Địa chỉ liên lạc:
witness2005@gmail.com
Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời
ghé:
www.tudodanchuvietnam.net
http://tudongonluan.atspace.com
http://www.viet.no
Trong
trang mạng thứ 1, thứ 2, thứ 3 và thứ 5 trên đây, Quư vị có thể
t́m thấy
nhiều tài
liệu đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam
Đấu tranh hoà b́nh, bất bạo
động.
Phơi bày phổ biến sự thật về Hồ Chí Minh.
Giải thể chế độ Cộng sản
độc tài
Kính
gởi: Toàn thể tín hữu PG HH trong nước và
hải ngoại,
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Kính
thưa chư tín hữu thân mến,
Những
tháng gần đây đại đa số tín hữu PGHH
trăn trở, ưu tư về vấn đề AN H̉A
TỰ sắp bị phá hủy và một số tín hữu
đă lên tiếng phản ứng khá mạnh mẽ,
nhưng h́nh như c̣n phải chờ đợi cái ǵ
sẽ đến.
Đứng
về phương diện lịch sử, di tích là
những bảo vật có tính cách truyền thống lưu
lại để người đời sau thấy
được những tấm gương kỳ công,
kỳ tích của người đi trước theo ḍng
lịch sử, cho nên những di tích dù ở diện nào
cũng vậy, phải được bảo quản,
bảo tồn càng lâu dài càng quí...
AN
H̉A TỰ là một di tích của PGHH với một sử
liệu đặc biệt, càng phải trân trọng
bảo tồn bởi lẽ ngôi chùa này mang danh nghĩa là Chùa
Thầy, v́ vào ngày 29-5 năm Ất Dậu (1945), chính tay
Đức Huỳnh Giáo Chủ thỉnh lư hương
Tam Bảo từ Tổ đ́nh đem đến an vị
tại An Ḥa Tự. Lúc ấy Đức Ông và ông
Hương Chủ Cưu tŕnh ư kiến với Đức
Thầy là sau này có dịp sẽ xây cất thêm nguy nga
đồ sộ hơn. Đức Thầy lắc
đầu và trả lời ngắn gọn: “Hư đâu
sửa đó, nếu có xây cất thêm th́ xây cất ṿng
ngoài...” Như vậy có nghĩa vị trí di tích phải để
y, chính tôi (Lê Quang Liêm) đứng bên cạnh Đức
Thầy được nghe tận tai, nh́n tận mắt và
chịu trách nhiệm với lịch sử về sự
chứng nhận này.
Nay,
An Ḥa Tự sắp bị phá vỡ. Đây không phải là
một sự trùng tu, v́ ngôi An Ḥa Tự c̣n rất kiên
cố mà sự kiện này chính là một âm mưu nằm
trong kế hoạch “TIÊU DIỆT PGHH”. Vậy th́ kế
hoạch thâm độc này như thế nào ???
Là
người tín đồ PGHH, chúng ta phải nh́n
ngược ḍng thời gian để thấy những
dấu ấn năo ḷng ngập tràn nước mắt luôn luôn
đè nặng lên PGHH một cách liên tục và c̣n tiếp
diễn măi măi cho đến khi nào trên toàn lănh thổ VN không
c̣n thấy ǵ là di tích PGHH, cũng như không c̣n ai nói
đến 4 chữ PGHH nữa.
Dưới
đây là kiểm điểm lại một cách đại
lược về những thảm trạng đă
đến với PGHH trong một quá tŕnh thời gian 35
năm sau này (1975-2010).
Thứ
nhất: Chỉ có 1 tháng sau ngày 30-4-75, địa danh
“Thánh địa Ḥa Hảo”, miền đất thiêng liêng
của PGHH bỗng nhiên bị nhà cầm quyền CS
đổi tên là xă Phú Mỹ, huyện Phú Tân.
Thứ
hai: Trước 30-4-75, cổng Tổ đ́nh luôn
hiên ngang cùng tuế nguyệt dưới cái bảng “TỔ
Đ̀NH PGHH”, nhưng cũng chỉ có 1 tháng sau ngày 30-4-75,
tấm bảng này lại cũng bị nhà cầm quyền
CS đến hạ xuống.
V́
danh dự Đạo pháp, hạ tuần tháng 3-2000, cụ
Lê Quang Liêm và hàng ngàn tín đồ PGHH hùng dũng
vượt ṿng vây CA tiến đến cổng Tổ
đ́nh treo lại cái bảng “TỔ Đ̀NH PGHH” th́
liền bị một cuộc đàn áp tàn bạo diễn
ra, kẻ ngất xỉu nằm lăn trên mặt
đất, người th́ sưng mặt bầm ḿnh,
một số cán bộ cốt lơi như: Lê Minh Triết,
Trương Văn Thức, Nguyễn Châu Lang, Trần Nguyên
Hưởn, Vơ Văn Bửu, Trần Văn Bé Cao, Lê Văn
Nhuộm, v.v... bị bắt và mỗi người lănh án
từ 3 đến 5 năm tù.
Tuy
một số đông tín hữu bị ở tù nhưng
tấm bảng “TỔ Đ̀NH PGHH” vẫn c̣n
được treo, vẫn được hiên ngang cùng
tuế nguyệt... măi cho đến thượng tuần
năm 2008, chẳng biết lư do ǵ bà Bùi Thị Bê lại
tự động gỡ xuống và thay vào đó tấm
bảng: “TỔ Đ̀NH ĐỨC GIÁO CHỦ PGHH”. Sự
việc mờ ám này chỉ có bà Bùi Thị Bê và Ban
Đại diện PGHH “quốc doanh” biết và chỉ có 2
thành phần này là “tội đồ thiên cổ” trong
lịch sử PGHH.
Phải biết rằng cụm
từ ngữ “Tổ đ́nh PGHH” và “Tổ đ́nh
Đức Giáo Chủ PGHH” có tính chất khác nhau về
lịch sử cũng như về giá trị. Tổ
đ́nh PGHH mang tính chất tập thể và Tổ đ́nh
PGHH là tiêu biểu cho nơi phát sinh nền Đạo PGHH...
c̣n Tổ đ́nh Đức Giáo Chủ th́ có tính chất cá
nhân, là nơi xuất thân của Đức Giáo Chủ và
cái từ ngữ Đức Giáo Chủ nói một cách
đơn thuần và mơ hồ như vậy là mang cái ác
tâm đánh lạc lịch sử về sau. Đây là cái tṛ
“đánh lận con đen” khinh thường 7 triệu tín
đồ PGHH không có kiến thức ǵ hết.
Trong
kế hoạch triệt tiêu PGHH tất nhiên những ǵ mang
di tích Đạo PGHH là phải bị phá vỡ…
Thứ
ba: Chỉ 1 tháng sau ngày 30-4-75, hằng trăm
trụ sở của Giáo hội PGHH bị nhà cầm
quyền CS tịch thu rồi sử dụng làm những
điểm mua bán, làm văn pḥng, làm nhà ở, nhà cho thuê
v.v... và chỉ mấy tháng sau đó không ai c̣n thấy
dấu vết ǵ là cơ sở của PGHH nữa. Hằng
ngàn Độc Giảng đường cũng bị phá
bỏ hoặc làm kho chứa vật liệu, hoặc
bỏ trống hoặc làm chuồng nuôi gà vịt như
ở ngă ba lộ tẻ Thôm Rôm (Thốt Nốt).
Như
vậy, từ việc hủy bỏ địa danh “Thánh
địa PGHH”, hạ bảng “Tổ đ́nh PGHH” cho
đến việc tịch thu và phá hủy các Hội
sở PGHH chỉ cách sau ngày 30-4-75 khoảng 1 tháng mà thôi
đủ chứng tỏ rằng đảng CSVN đă
dự trù sẵn một kế hoạch “TIÊU DIỆT PGHH” và
bây giờ chỉ c̣n là thực hiện, tùy tiện thực
hiện.
Thứ
tư: Sau ngày 30-4-75, sách báo, tài liệu ǵ về PGHH
đều bị nhà cầm quyền CS cấm bày bán trên
thị trường. Cho đến ngày nay, trong các nhà bán
sách trên toàn lănh thổ VN không hề thấy một nơi
nào có để tư liệu hoặc sách báo ǵ về PGHH.
Thế là về phần văn hóa của PGHH kể như
đă hoàn toàn bị triệt tiêu.
Trong
lúc đó những tác phẩm đồi bại như
quyển “Sư thúc Ḥa Hảo”... “Ḍng sông thơ ấu”
(chuyển thể thành phim)... tư liệu “Sau bức màn
hư ảo”... “Người tín đồ Ḥa Hảo
cần biết” v.v... mang nội dung bôi lọ, mạ
lỵ, đả kích PGHH được bày bán la liệt
trên thị trường, được phổ biến
tràn đồng, lấp nội (!)
Thứ
năm: Thư viện PGHH tại Thánh địa Ḥa
Hảo cũng đă bị nhà cầm quyền CS phá hủy
từ cuối năm 2005 và hiện nay bỏ trống...
Nếu v́ để thực hiện công ích xă hội nên
phải dẹp thư viện, tại sao lại bỏ
trống suốt 5 năm dài. Như vậy phải chăng
cũng là một hành động tiêu diệt di tích PGHH ?
Thứ
sáu: Từ sau ngày 30-4-75, nhà cầm quyền CSVN âm
mưu ra lịnh giải tán các Giáo hội PGHH; cả
đến sự hành đạo thường thức
của người tín đồ PGHH như là phổ
biến sấm giảng, đọc sấm giảng PGHH,
lễ bái, v.v... cũng bị cấm. Tín đồ PGHH
khộng được tụ họp quá 5 người.
Đến
năm 1999, trước sức tranh đấu một c̣n
một mất của khối Phật giáo Ḥa Hảo
Thuần túy (PGHH TT) do cụ Lê Quang Liêm lănh đạo
đ̣i tái phục hoạt Giáo hội PGHH và được
thế giới tự do quan tâm, CSVN nhận thấy không
thể tiêu diệt PGHH một cách trắng trợn nên CSVN
phải áp dụng một kế hoạch tinh vi hơn là dàn
dựng một Ban Đại diện Trung ương PGHH
“quốc doanh” và Hội trưởng Ban Đại diện
Trung ương PGHH này lại là một đảng viên CS có
61 tuổi đảng là Nguyễn Văn Tôn và 80% Trị
Sự viên trong Ban Đại diện Trung ương này
đều là đảng viên CS. Hiện tượng này là
một sự ô nhục thậm tệ trùm lên “mặt mày”
của 7 triệu tín đồ PGHH và cũng là một cái
quái thai trong thời đại dân chủ, văn minh... v́
trên thế giới ngày nay, có nơi nào có một tôn giáo dù là
thiểu số lại do một đảng viên CS lănh
đạo không? Quả nhiên là không và chỉ có trên
đất nước VN, một đất nước
được lănh đạo theo chủ nghĩa Mác-Lênin
mới có (!) Lịch sử nhân loại từ thời
ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay cũng không có
cái hiện tượng này.
Cụ
thể là trên đất nước VN từ Phật Giáo,
Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Tin Lành, v.v... trên mặt h́nh thức
có tôn giáo nào có một cơ cấu lănh đạo, dù ở
cấp xă do một đảng viên CS cầm đầu
không ? Rơ ràng là không ! Thế mà chỉ có PGHH là có mà thôi
Thứ
bảy: Bây giờ phá hủy An Ḥa Tự là di tích
cuối cùng của PGHH, tất nhiên là phải xảy ra, v́
đó cũng là cái điểm cuối cùng trong kế
hoạch “Tiêu diệt PGHH” phải thực hiện cho
bằng được để bước sang
điểm thứ 8.
Thứ
tám: Điểm thứ 8 là “ĐIỂM HẠ
MÀN”. Bảy triệu tín hữu PGHH có ai biết, là
việc ǵ sẽ xảy ra không? Là... là Ban Trị sự
Trung ương “quốc doanh” tự tuyên bố: “GIẢI
THỂ HỆ THỐNG GIÁO HỘI PGHH” v́ giáo lư PGHH là “tu
tại gia” ( ! ).
Thế
là xong ! Dưới bầu trời VN sẽ không ai c̣n
thấy dấu tích ǵ của PGHH nữa... Tư
tưởng, văn hóa PGHH đă tiêu... H́nh thức lănh
đạo tập thể PGHH là hệ thống Giáo hội
cũng tiêu... Di tích PGHH như Chùa, Độc Giảng
đường, Hội sở, v.v... cũng tiêu... Như
vậy là PGHH hoàn toàn bị tiêu diệt, bốn chữ PGHH
không c̣n trong lịch sử tôn giáo nữa.
Thật
là tuyệt vời !... Thật là kỳ diệu ! Tuyệt
vời, kỳ diệu hơn cả xây Vạn lư
Trường thành... hơn cả thảm kịch Thiên An Môn
!
Vậy ai là kẻ chủ mưu ?
Điều này chắc chắn rằng không ai là không
biết : Đó là chính sách “tiêu diệt tôn giáo” của
đảng CSVN mà PGHH là một nạn nhân hàng đầu và
lịch sử đă chứng minh điều này qua bao nhiêu
tội ác của Việt Minh (VM) trước kia và CSVN ngày
nay đối với PGHH trong một quá tŕnh thời gian dài
65 năm (1945-2010), trôi qua...
Dầu ai
có bền gan sắt đá,
Cũng
động ḷng trước cảnh ngửa nghiêng.
Đạo
diệu mầu gặp lúc truân chuyên,
Phận môn
đệ phải lo vun quén.
Tằm
sức nhỏ c̣n làm nên kén,
Người
không lo có thẹn hay chăng?
Đó là lời kêu gọi
của Đức Thầy thật tha thiết làm sao !
Thật năo nùng làm sao ! lẫn những lời phiền trách
nhẹ nhàng nhưng sâu sắc làm sao !
Tằm
sức nhỏ c̣n làm nên kén,
Người
không lo có thẹn hay chăng?...
Trông phường giá áo túi cơm,
Trông
phường úy tử mà nhờm đi thôi.
Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa,
Ham sự
sống như tiên nưa nửa.
Mê mồi
thơm như cá lục châu,..
Với tư cách là
một tín đồ PGHH già nua, 91 tuổi rồi, tôi đă
sống liên tục với Đạo suốt 70 năm dài
và cũng từng lặn ng̣i ngoi nước, vào sanh ra
tử với Đạo trong những cơn thăng
trầm hưng phế.
Tâm nguyện của tôi là
“ĐẠO C̉N TÔI C̉N”... “ĐẠO MẤT TÔI MẤT”.
Bảy mươi năm sống với Đạo,
nhất là 35 năm sau cùng này (1975-2010) tôi và anh chị em
trong khối PGHH TT đă làm những ǵ ắt toàn thể tín
hữu không biết nhiều cũng phải biết ít và
đă có bao nhiêu cán bộ PGHH TT vào tù ra khám, nát cửa tan nhà
cũng v́ “tận trung với Đạo và tận hiếu
với Thầy”, và hiện nay c̣n 13 người đang
ngồi tù, dở sống dở chết, bịnh hoạn
không được chữa trị, điển h́nh là Mai
Thị Dung sắp chết, đi đứng không
được, và ông Lê Văn Sóc bị một khối u sau
ót khi bị vỡ ra là chết.
Mỗi lần tôi nghĩ
đến cái kế hoạch “TIÊU DIỆT PGHH” của CSVN
(như đă tŕnh bày ở đoạn trước)...
mỗi lần tôi nhớ đến cái quái thai của
thời đại là cái búa để đập nát ngôi nhà
PGHH... mỗi lần tôi nhớ đến cái cảnh chia
rẽ của một số nhân vật PGHH chỉ v́ danh v́
lợi, nhất là mỗi lần tôi nh́n các tôn giáo bạn,
trên h́nh thức, tôn giáo nào cũng c̣n giữ được
cái thể diện căn bản, c̣n nh́n PGHH th́... hỡi
ơi, nhân vật Ban trị sự Trung ương th́ là
đảng viên CS và CS... tôi cảm thấy vô cùng tủi
nhục và hổ thẹn, không c̣n muốn sống, nhưng
lại phải sống để làm tṛn những ǵ tôi
đă hứa vối Đức Thầy... Cũng là tôn giáo
mà tại sao người ta như thế ấy c̣n ḿnh th́
như thế này ???
Vẻ cho dân lập chí râu mày,
Phá tan óc
tinh thần như nhược.
Thân nặng
nề như chim ô thước,
Quyết
làm xong cầu đá sông ngân...
Lời khuyến khích này, mong
rằng toàn thể tín hữu PGHH không ai quên. Vậy th́:
Phải
chỗi dậy nương dây hùng tráng,
Chữ
Đại Hùng, Đại Lực, Từ Bi.
Vậy
mới trang quân tử nam nhi,
Thân dốc
vẹn hai câu ngay thảo.
Kính thưa toàn thể tín
hữu PGHH thân mến,
An Ḥa Tự là di tích cuối cùng
của PGHH, mang một tính chất thiêng liêng là “CHÙA
THẦY”, không một quyền lực nào được xúc
phạm đừng nói chi đến việc phá
hủy.
Nhưng
trên thực tế đă bị xúc phạm nghiêm trọng là
Ban Trị sự Trung ương quốc doanh ngang nhiên
chiếm làm trụ sở, biến nơi thiêng liêng, trang
nghiêm và thanh tịnh làm một điểm thế tục đồi
bại, đồ danh trục lợi, buôn thánh bán thần,
mượn Đạo tạo đời... Nay th́ An Ḥa Tự lại sắp
bị phá hủy.
Vậy th́, chúng ta, người
tín đồ PGHH kính Đạo trọng Thầy có
trọng trách phải cương quyết BẢO VỆ AN
H̉A TỰ bằng mọi giá : Ḿnh c̣n Chùa phải c̣n, Chùa
mất ḿnh phải mất !!!
Tôi đă thành lập “BAN BẢO
VỆ AN H̉A TỰ” và 1 viên gạch tại ngôi chánh
điện An Ḥa Tự bị đập rơi xuống là
một khúc xương của Ban Bảo vệ rơi
xuống.
Tôi kêu gọi tất cả
đồng bào cũng như các tín hữu PGHH ngành kiến
trúc đừng nhúng tay vào việc xây cất An Ḥa Tự
mới này để tránh những hậu quả khó
lường.
Tôi kêu gọi nhà cầm quyền
CS các cấp không nên can dự vào vụ “An Ḥa Tự” v́
đây là vấn đề nội bộ của tôn giáo.
Trường hợp nhà cầm quyền can dự th́ rơ ràng
rằng việc phá hủy AHT là do nhà cầm quyền
chủ mưu.
Tôi kêu gọi toàn thể tín
hữu PGHH già cũng như trẻ, gái cũng như trai có
ḷng yêu Đạo, kính Thầy, v́ danh dự của
Đạo pháp hăy hết ḷng hợp tác hay ủng hộ Ban
Bảo vệ An Ḥa Tự để bảo tồn Chùa
Thầy được trường cửu, bất
khả xâm phạm.
Tôi thành khẩn kêu gọi chư
tín hữu PGHH hải ngoại hăy dốc tâm ủng hộ
mọi phương tiện cho Ban Bảo vệ An Ḥa
Tự được thành công rạng rỡ trong sứ
mạng trọng đại “BẢO TỒN AN H̉A TỰ”.
Việt Nam, ngày 24-5-2010.
TM.
Giáo hội Trung ương Phật giáo Ḥa Hảo Thuần
túy
Hội trưởng
LÊ QUANG LIÊM
uuuuuuuuuuuuu
Ở ngay giữa Tp
Hồ Chí Minh – tại phường 28, quận B́nh Thạnh
- có một chuồng ḅ cũ ven sông Sài G̣n đang
được dùng làm nơi thờ phượng Chúa,
nơi giảng đạo thường xuyên, nơi
diễn ra Thánh lễ, Tiệc thánh, Mừng Chúa giáng sinh,
phục sinh... của Hội thánh Mennonite do Mục sư
Dương Kim Khải quản nhiệm.
Qua bài tựa đề “Mục sư ở trong
chuồng ḅ giữa TP HCM”, viết tại Đà Lạt
hồi mùa hè năm 2010 nầy, MS Thân Văn Trường,
sau khi tới thăm “chuồng ḅ” ấy, mô tả t́nh
cảnh đáng buồn trong đoạn kết rằng
“...chuồng ḅ, nơi gia đ́nh MS Khải đang ở
giữa thành Hồ, nơi có vợ MS Khải đang
nằm liệt giường bên trong cùng. Kế bên, chính
giữa là Thánh giá, hàng chữ TÔN VINH ĐỨC CHÚA
TRỜI; vách treo cây đàn ghi-ta, trên bàn có chồng cao Kinh
thánh và mâm, chén Tiệc thánh ...”.
Qua cuộc trao đổi với chúng tôi, MS
Dương Kim Khải tâm sự: “Cuộc đời tôi bây giờ, nói đúng ra tôi
ăn mày đồng bào và sống nhờ đồng bào.
May mà c̣n có cái chuồng ḅ để ở, chớ nếu
không th́ tôi cũng chả biết thế nào. Anh em
người ta thấy t́nh cảnh của tôi nên nói rằng
nhà cửa họ không rộng răi lắm nên họ bán ít ḅ
đi để có chỗ cho tôi ở”.
Nhưng đây không phải chỉ để
ở, mà c̣n là nơi cùng tín hữu thờ phượng
Chúa, tổ chức Thánh lễ, để giảng
đạo... th́ liệu không khí thiêng liêng ấy có bị
ảnh hưởng ǵ không trong cái chuồng ḅ cũ của
một tín đồ hảo tâm trợ giúp. MS Dương
Kim Khải bày tỏ tấm ḷng của ḿnh và các tín hữu:
“Điều quan trọng là tấm ḷng. Và tấm ḷng
đó biết hướng tới và làm điều lành.
Người làm đạo nghĩa th́ phải giúp
được chính nghĩa, cứu nhân độ thế,
sống làm sao cho thánh khiết, cho lư tưởng, đúng
với sự công bằng. Cuộc đời của tôi
cống hiến cho Đức Chúa Trời, cống hiến
cho chính nghĩa, cho sự đấu tranh cho dân tộc
nầy và tất cả những ǵ để đem lại
đúng như những điều mà Thượng
Đế đă ban tặng cho dân tộc VN”.
MS Dương Kim Khải nhân tiện đề
cập tới số tín đồ trong Hội thánh Mennonite
của ông, những người đồng cảnh
ngộ với MS Khải bị mất nhà phải sống
lang thang rày đây mai đó, và rồi bị gậy công an và
cơm tù “chào đón” khi họ đeo đuổi khiếu
kiện nhiều năm: “Đúng
ra đă nói chuồng ḅ th́ không được rộng. Nên
số tín đồ được chừng 20
người, già có, trẻ có. Tất nhiên là trong Hội
thánh của tôi th́ có vài trăm tín đồ ở rải
rác chỗ nầy chỗ khác nữa. Họ ở xa nên
chưa về được, nhưng tâm t́nh th́ họ
hướng về nơi chuồng ḅ để cầu
nguyện – nơi đang hướng đạo cho họ
nuôi dưỡng tâm linh cũng như tất cả
những ǵ cuộc đời họ ước ao.”
Không đàn áp tôn giáo?
Một
số tín hữu thuộc Hội thánh nầy nhận xét: “Nói chung con cái Chúa khi biết
t́nh cảnh nầy họ rất buồn, và chỉ
biết cầu nguyện thôi. V́ bây giờ điều
kiện giúp đỡ Hội thánh của MS Khải cũng
chưa có được. Chỉ có trông chờ Chúa cho phép,
Chúa mở đường th́ mới có cơ hội
được. Chớ bây giờ, trước mắt,
Hội thánh đâu có chỗ nào khác mà nhóm đâu, nên vẫn
phải chấp nhận vậy thôi. C̣n dư luận th́
họ cũng rất là bất b́nh. Nhưng sự bất
b́nh nầy đâu làm ǵ được, chỉ cầu
nguyện thôi. Nói chung các tín đồ rất xót xa. Chính v́
xót xa cho hoàn cảnh của MS Khải như vậy nên anh
em hỗ trợ, giúp đỡ cho MS Khải rất
nhiều kể từ giai đoạn MS Khải phải vào
tù. Nói chung, nhà nước, chế độ nầy
đẩy người dân vào đường cùng luôn, không
lối thoát, tới mức độ chỉ c̣n
điều kiện sống nhỏ nhoi nhất của
người ta cũng bị tước đoạt đi
cả. Không những tín đồ, mà nhiều người
dân bên ngoài thấy hoàn cảnh nầy họ cũng rất
bực bội, uất hận.”
Hội thánh tư gia của MS Dương Kim
Khải sinh hoạt trong cái chuồng ḅ cũ ấy đă 3
năm nay th́ hẳn giới cầm quyền địa
phương phải đặc biệt chiếu cố. MS Dương
Kim Khải cho biết: “Tất
nhiên là họ có đe dọa nầy, đe dọa khác.
Nhưng sự đe dọa của họ th́ tôi đă quen
trong hai mươi mấy năm nay rồi. Khi nào họ
dỡ chuồng ḅ đi th́ thôi. Họ đă từng dỡ
mấy căn nhà của tôi, đốt cả nhà tôi
rồi. Bây giờ chuồng ḅ nầy là của người
ta. Họ muốn đốt th́ đốt.”
Một trong những
người hết ḷng trợ giúp cho Hội thánh nầy là
Thầy Truyền đạo Nguyễn Chí Thành bày tỏ
quyết tâm “sống chết bởi ư Chúa” ở nơi
thờ phượng ven sông ấy: “Tôi đang làm việc trong Hội thánh nầy. Tôi
nói thẳng ra là chính quyền địa phương gây áp
lực cho Hội thánh. Nhưng v́ Chúa và anh em ở đây
rất mạnh mẽ và gọi là bất khả xâm
phạm chỗ ở, nên họ muốn làm khó khăn
cũng hơi khó. Tại v́ sống chết bởi ư Chúa.
Nên chúng tôi quyết định một câu là sống
chết bởi ư Chúa. V́ cớ đó nên họ không làm ǵ
được anh em.”
Chúng tôi có liên lạc nhiều lần với
giới cầm quyền địa phương để
t́m hiểu về phản ứng của họ liên quan
trường hợp Hội thánh của MS Dương Kim
Khải, nhất là hoàn cảnh Hội thánh phải nhóm
họp ở nơi bất đắc dĩ ấy, nhưng
không được trả lời.
Thưa quư vị, MS Dương Kim Khải
từng quản nhiệm Hội thánh Mennonite Việt Nam, chi
hội tư gia với cơ sở thờ phượng
đàng hoàng tại phường 26, quận B́nh Thạnh,
Sài G̣n trước khi ông bị lâm vào cảnh lao lư hồi
năm 2004 v́ bị giới cầm quyền gán cho tội
danh vu khống chủ tịch quận và công an sau khi ông bênh
vực cho hàng trăm hộ dân nghèo bị mất nhà,
bị đàn áp khốc liệt, trở thành vô gia cư.
Đó là chưa kể MS bị giới cầm quyền
bắt nhiều lần từ những năm 80, và bị
giam ở Hỏa Ḷ tại Hà Nội một năm. Nhắc
tới giới cầm quyền, MS Dương Kim Khải
không khỏi nhận xét như sau: “Họ nói là nhà nước pháp quyền, họ cứ
nói là nhà nước v́ dân. V́ dân th́ đường
đường chính chính tôi cũng là một công dân
của nước Việt. Công dân nước Việt mà
tôi chẳng thừa hưởng được cái ǵ
của nước Việt cả. Vậy mà nói ǵ họ nói
nghe hay lắm. Nói thật là tôi không nhớ vị tổng
thống nào đă nói một câu rằng ‘đừng nghe
những ǵ CS nói, mà hăy nh́n kỹ những ǵ CS làm”. Tôi là
người sinh ra ở đất Bắc, tôi nghe câu đó
mà chưa biết ông đó là ông nào. Nhưng tôi nghe câu đó,
th́ từ nhỏ tới lớn tôi thấy câu đó
thực tế quá rồi.”
Lần đầu tiên
đến với Hội thánh của MS Dương Kim
Khải hôm Chủ nhật (06-06-2010) vừa rồi, MS Thân
Văn Trường từ Hố Nai, Đồng Nai đă
chia sẻ lời Chúa với tín hữu ở đó – tại
nơi, nói theo lời MS Thân Văn Trường, “chuồng
ḅ cũ, mái tôn sát đầu, nóng như trong ḷ nướng
bánh ḿ”. MS Thân Văn Trường bày tỏ cảm xúc: “Hoàn cảnh như vậy th́
tôi đă tới và đă nhóm với anh em. Chúng tôi thấy
một hoàn cảnh mà ở ngay TPHCM – một thành phố
lớn – nhưng có trường hợp như vậy th́
đó là hậu quả của sự đối xử phân
biệt đối với anh em chúng tôi là những
người có Đức Tin. Nhưng chúng tôi thấy không
lạ ǵ, bởi v́ từ Nam chí Bắc, ở đâu anh em
cũng đều chịu t́nh trạng khó khăn,
đều chịu khó dễ để ḿnh giữ
Đức Tin của ḿnh. Ư tôi nói rằng trường
hợp MS Khải không phải là cá biệt. Chỉ có
điều là MS Khải ở ngay tại TPHCM, lại trong
hoàn cảnh như vậy, nên chúng tôi thấy rất
đáng tiếc.”
Thưa
quư vị, nơi sinh hoạt đạo tại cái
chuồng ḅ bên sông Sài G̣n ấy không biết có làm
người ta liên tưởng đến Hang đá Giáng
sinh Bethlehem?
Kính
mời vào xem và ghi tên gia nhập Khối 8406 ở trang
mạng của Khối :
blogspot.com
Như chúng
tôi đă đưa tin, trong những ngày qua nhà cầm
quyền CSVN đă thực hiện sự chiến dịch
phân biệt và đàn áp tôn giáo tinh vi và hết sức man
rợ phân biệt rất rơ ràng đối với các tín
hữu Công giáo (CG) bằng nhiều h́nh thức: Cấm
xuất cảnh, không cấp giấy tờ cho con cái đi
học, cấm các thân nhân những người yêu mến
sự thật công lư t́m kiếm việc làm bằng
nhiều biện pháp bất chấp pháp luật. Điều
đặc biệt là hiện nay, nhà cầm quyền CSVN
đang tập trung vào đội ngũ sinh viên Công giáo
bằng những hành động đê hèn qua bàn tay của
Nhà trường “xă hội chủ nghĩa”. Nhiều
sinh viên đă bị bắt bớ không cần
lệnh, không cần luật, công an có thể bắt bớ
đánh đập bất cứ lúc nào. Tính mạng các em
luôn bị đe dọa nghiêm trọng.
Trường hợp 3 sinh viên
đến thăm Đồng Chiêm bị bắt,
bị đánh đập, lục soát nhà ở và
cướp chiếm tài sản như máy tính xách tay, sách
vở… là dụng cụ học tập của họ mà
không hề có bất cứ giấy tờ, biên bản nào.
Cuối cùng th́ chối trắng và căi cối căi chày.
Trường hợp sinh viên Mathia
Vũ Hoàng Quang bị bắt đi đánh
đập dă man hai lần và khi đă ngất xỉu th́
vứt ra cánh đồng. Hiện nay anh Quang đang
phải bỏ học nằm nhà điều trị v́
bị rách màng ruột trong điều kiện hết
sức đau đớn và khó khăn.
Những tháng qua, tại Vinh,
một nhóm sinh viên Công giáo tập trung về nhà bà Lâm,
để cùng đọc kinh cầu nguyện v́ ở
đó đi đến nhà thờ khá xa đă bị đánh
đập tàn nhẫn bằng bọn côn đồ.
Mới đây, ngày 5-4-2010, cái
gọi là Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An đă dùng
tṛ hề bắt sinh viên công giáo tại Vinh “kư Cam
kết” với những điều khoản hết
sức vô lư nhằm không cho các em sinh hoạt tôn giáo tại
gia đ́nh. Đây là một tṛ hề vi phạm trắng trợn
pháp luật do chính nhà nước CSVN đă nặn ra. V́
vậy các em đă không kư vào Bản cam kết vô lư, phân
biệt đối xử trắng trợn đối
với sinh viên Công giáo như vậy.
Bản
cam kết này có nội dung như sau (xin trích):
“Tôi xin cam kết thực hiện
nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, Quy chế của
Bộ GD&ĐT, nội quy, quy định của nhà
trường, của địa phương nơi tạm
trú về các vấn đề sau:
1- Tự giác học tập, tích
cực, có hiệu quả. Chấp hành nghiêm túc thời gian
học tập theo quy định của nhà trường,
đặc biệt là giờ tự học tại khu
nội trú của trường và nơi tạm trú tại
địa phương. Chấp hành kỷ luật nội,
ngoại trú, nếu vi phạm sẽ bị xử lư theo quy
chế.
2- Không buôn bán, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng chất Ma túy, thuốc
phiện, vũ khí (kể cả hung khí như dao, kiếm,
côn… và vũ khí thô sơ tự tạo), chất nổ, chất
dễ cháy. Không tụ tập gây rối gây mất trật
tự trị an, không tham gia đánh bạc, hút thuốc lá
tại nơi công cộng theo quy định của nhà
nước.
3- Không tham gia hoạt
động tôn giáo trái phép, không tụ tập, sinh hoạt
tôn giáo tại nhà riêng công dân, gây ảnh hưởng
đến an ninh trật tự và vi phạm quy ước
của địa phương.
4- Chấp hành nghiêm Luật an
toàn giao thông, đội mũ bảo hiểm khi ngồi
trên xe Môtô, xe máy. Không tham gia đua xe, lạng lách, phóng nhanh
vượt ẩu gây tai nạn hoặc tụ tập gây ùn
tắc giao thông.
5- HSSV không xuyên tạc
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước nhằm tuyên truyền, kích động, lôi kéo
người khác theo ư đồ cá nhân hoặc của
tổ chức phản động.
6- Có trách nhiệm phát giác, tố
giác và khai báo thành khẩn các hành vi vi phạm của
người khác với cơ quan có thẩm quyền. Không
chứa chấp, bao che cho phần tử xấu.
Tôi xin hứa thực hiện
nghiêm các nội dung đă cam kết trên. Nếu vi phạm
sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi h́nh
thức xử lư theo pháp luật của Nhà nước, quy
chế của Bộ GD&ĐT và nội quy, quy
định của nhà trường”.
Các em đă đồng loạt
phản đối rằng, mọi việc sai trái, đă có
pháp luật xử, không hề có quy định pháp lư nào
buộc phải kư cam kết “không vi phạm chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước” Nếu chúng tôi vi phạm pháp
luật, cứ xử lư theo pháp luật.
Khi ban hành cái gọi là “Bản
cam kết” này, UBND tỉnh Nghệ An đă chính thức vi
phạm pháp luật Việt Nam, chia rẽ đoàn kết
dân tộc, phân biệt tôn giáo và phân biệt đối
xử và cướp đoạt quyền tự do tôn giáo,
tự do đi lại, tự do hội họp của sinh
viên tại đây.
Liền sau đó, UBND tỉnh
Nghệ An đă chỉ đạo các trường phân
biệt đối xử tàn bạo với các sinh viên này,
nhằm bắt họ phải khuất phục điều
sai trái này. Các cơ sở giáo dục có sinh viên Công giáo
tại Vinh đă thể hiện sự phân biệt rơ ràng và
trắng trợn.
Chẳng
hạn ngày 3-6-2010, hiệu trưởng trường Cao
đẳng Sư phạm Nghệ An là Phạm Bá Thắng
đă có “Thông báo về việc xếp loại kết
quả rèn luyện cho HSSV năm học 2009-2010” gởi cho
Ban chủ nhiệm các khoa như sau: (xin trích):
“Kính gởi: BCN các khoa
Thực hiện công văn
số 1800/UB ND-NC ngày 5-4-2010 của UBND tỉnh Nghệ An
về việc yêu cầu HSSV kư cam kết không vi phạm các
chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước, các tệ nạn xă hội
(sic) và các nội quy, quy định của nhà trường
và của địa phương… BGH nhà trường đă
triển khai cho toàn thể HSSV kư. Sau khi tổng hợp, c̣n
có một số HSSV không nạp, không kư vào bản cam kết…
BGH xét thấy những HSSV trên ư thức tổ chức
kỷ luật kém, không chấp hành đúng các chủ
trương, chính sách của đảng, pháp luật
của nhà nước, các nội quy, quy định của
nhà trường và địa phương.
V́ vậy BGH đề nghị
BCN các khoa xếp loại điểm ĐGKQRL năm
học 2009-2010 những HSSV (có danh sách kèm theo) xếp
loại trung b́nh.
Tiếp được thông báo
BGH yêu cầu BCN các khoa thực hiện nghiêm túc nội dung
đă nêu trong thông báo này”.
Văn bản (không số) này
chỉ thị cho các khoa xếp cái gọi là “Đánh giá
kết quả rèn luyện năm học 2009-2010 loại
trung b́nh” có nghĩa là các sinh viên sẽ không được
chuyển lớp và không được tốt nghiệp.
Cũng trong ngày 3-6-2010,
người ta lại thấy nhiều danh sách sinh viên CG
“bất tuân” của từng khoa được gởi
đi. Chẳng hạn “Danh sách
HSSV không nạp và không đồng ư điều 3 trong
Bản cam kết, Khoa Giáo dục mầm non” (do
trưởng khoa Nguyễn Thạc Dinh lập) liệt kê 5
nữ sinh viên Công giáo là các cô Trần Thị Dương,
Vũ Thị Hương, Nguyễn Thị Kiều, Bùi
Thị Hồng Long, Bùi Thị Sen.
Chúng tôi cực lực tố cáo
những hành vi vi phạm nhân quyền, quyền tự do tôn
giáo trắng trợn của nhà cầm quyền Nghệ An
và kêu gọi cộng đồng hăy quan tâm đến
những nạn nhân này. Được biết, tại Vinh
hiện có 2500 sinh viên CG thuộc các trường
Đại học, Cao đẳng và học nghề tại
đây.
Gần đây, những vụ
bắn giết học sinh như
ở Tĩnh Hải, Tĩnh Gia, Thanh Hóa đă
được thực hiện êm thấm bằng súng
của công an, đă không có báo chí nào được
điều tra và ém nhẹm nên bạo lực sẽ bùng phát
không dừng lại.
Được
biết, lợi dụng hiện nay, Giám mục Phaolô Cao
Đ́nh Thuyên đă nghỉ hưu, tân Giám mục Phaolô
Nguyễn Thái Hợp chưa chính thức nhậm chức,
nhà cầm quyền CSVN quyết định tung ra cú đ̣n
đă mưu đồ từ bấy lâu nay.
Phải chăng đây là “phép
thử” đầu tay mà nhà cầm quyền CS Nghệ An
dành cho Tân GM Phaolô Nguyễn Thái Hợp thể hiện vai tṛ
chủ chăn của ḿnh trước số phận
đoàn chiên Giáo phận Vinh, nhất là thế hệ
trẻ?
Trong điều kiện hiện
nay, tất cả quư vị yêu quư tự do, công lư, ḥa b́nh,
các giáo dân Việt Nam, hàng Giáo phẩm VN và giáo phận Vinh
cần lên tiếng hơn lúc nào hết về sự
trắng trợn này của nhà cầm quyền Hà Nội.
Hăy ngăn chặn bàn tay tội
ác bạo tàn của chúng lại v́ thế hệ trẻ VN.
Nữ
Vương Công Lư
TDNL có biên tập lại
http://www.nuvuongcongly.net/cong-giao/sinh-vien-gioi-tre/
Vừa
qua, theo nguồn tin truyền thông trong và ngoài nước cho
biết Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Việt Nam hôm nay tŕnh chương tŕnh xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2011, trong đó đề nghị bổ
sung chương tŕnh chuẩn bị dự thảo nghị
quyết sửa đổi một số điều
của Hiến pháp (HP) năm 1992. Trên tờ VnEcono my ngày 02-6-2010 có bài viết với
tiêu đề “Chuẩn bị sửa Hiến pháp 1992
từ năm tới” cho biết:
“Tại
dự kiến chương tŕnh xây dựng luật, pháp
lệnh năm 2011 tŕnh Quốc hội chiều 2-6, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đă đề
nghị bổ sung vào chương tŕnh chuẩn bị
dự thảo nghị quyết sửa đổi bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm
1992. Việc làm này nhằm tạo cơ sở cho việc sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 sau khi có
chủ trương của Ban chấp hành Trung ương
và việc sửa đổi, bổ sung các luật về
tổ chức bộ máy Nhà nước”.
Đây là một sự kiện
đặc biệt quan trọng được nhiều
tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước quan tâm theo dơi,
bởi ai cũng biết Hiến pháp nước Cộng
ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp
luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam, mà tiền thân của nó là
nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhà nước
dân chủ cộng ḥa đầu tiên với bản Hiến
pháp năm 1946. Hiến pháp của nhà nước Việt
Nam hiện tại đă trải qua 4 bản Hiến pháp
đó là Hiến pháp nước Việt Nam DCCH năm 1946 và
1959, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1980 và
1992 (sửa đổi và bổ xung 12-2001).
Hiến pháp là văn bản pháp
luật cao nhất, quan trọng nhất của một
quốc gia, đa phần ai có chút kiến thức chính
trị phổ thông cũng hiểu, tuy nhiên để
hiểu thực chất khái niệm Hiến pháp, ư nghĩa,
mục đích, vai tṛ và đối tượng trực
tiếp của Hiến pháp là ǵ th́ không ít người
chưa biết. Đó chính là lư do v́ sao câu khẩu hiệu
hoàn toàn sai về mặt ư nghĩa của Hiến pháp
như “Toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật” được treo đầy phố chợ,
trong các ngơ ngách khắp cả nước trên các băng rôn,
pano tuyên truyền của nhà nước mấy chục
năm nay mà không ai biết?! Cho đến giờ phút này
không mấy khó khăn bạn vẫn có thể dễ dàng
bắt gặp nó ở mọi nơi.
Đây chỉ là một ví dụ
nhỏ về quan niệm và sự hiểu biết về
Hiến pháp của dân chúng, kể cả giới trí
thức cũng không khá hơn là mấy. Tôi có dịp tranh
luận với một người có tŕnh độ trên
đại học về tự do ngôn luận, về
quyền tự do báo chí của công dân theo điều 69
của Hiến pháp quy định và tôi (Kami) khẳng
định rằng chính quyền VN, cụ thể là ông
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố
cấm báo chí tư nhân tại buổi giao lưu trực
tuyến ngày 09-02-2007 là trái Hiến pháp (vi hiến). Anh
bạn kia cho rằng tôi nói sai và ví dụ rằng “Hiến
pháp có điều nào cấm người dân vượt
đèn đỏ đâu, mà sao tôi vượt đèn
đỏ th́ công an bắt và xử phạt?”.
Các bạn đừng vội cho
rằng tôi tràn lan, dài ḍng. Tôi dẫn ví dụ trên để
cho thấy một người có tŕnh độ trên
Đại học ở Việt Nam và ngay cả ông Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng có bằng cử nhân
luật mà tuyên bố những câu rất chứng tỏ
không có kiến thức ǵ về luật pháp đặc
biệt là Hiến pháp.
Hiến
pháp là ǵ? HP (Constituti on) là một hệ thống quy
định những nguyên tắc chính trị căn bản
và thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền
hạn và trách nhiệm của một chính quyền.
Định nghĩa HP này được quy định
& áp dụng thống nhất trong tất cả các
bản HP của các quốc gia trên toàn thế giới (Wikipedia).
Định nghĩa Hiến pháp
đó cho thấy đối tượng trực tiếp
của Hiến pháp là một chính quyền nhà nước
chứ không phải dành cho người dân. Hiến pháp
được hiểu là khuôn khổ giới hạn
quyền lực của một nhà nước khi cơ quan
lập pháp ban hành các bộ luật, luật và cơ quan
Hành pháp ban hành các văn bản pháp luật, nghị
định… và các văn bản dưới luật
để điều hành một xă hội phải tuân
thủ nghiêm ngặt trong và đúng giới hạn của
Hiến pháp cho phép, tuyệt đối không được
vượt quá so với Hiến pháp quy định.
Qua đó cho thấy khẩu
hiệu “Toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật” là không đúng, bởi người dân có trách
nhiệm tuân thủ đầy đủ nghiêm túc các
luật pháp và quy định của chính quyền đă ban
hành phù hợp với Hiến pháp quy định. Và
đối tượng phải tuân thủ nghiêm túc và
đầy đủ Hiến pháp phải là các cơ quan
của chính quyền nhà nước, do vậy khẩu
hiệu trên phải tách làm hai đó là “Toàn dân sống và
làm việc theo pháp luật” và “Chính quyền làm
việc tuân thủ theo Hiến pháp” mới là đúng.
Trở lại việc Thủ
tướng kư quyết định nghiêm cấm báo chí
tư nhân cho thấy là một hành vi trái Hiến pháp.
Điều 69 Hiến pháp ghi rơ: “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có
quyền được thông tin; có quyền hội họp,
lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp
luật” nghĩa là giới hạn của Hiến pháp
cho phép công dân có quyền tự do báo chí theo quy định
của pháp luật. Do đó Quốc hội (Lập pháp) hay
Chính phủ (Hành pháp) của ông Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng chỉ có quyền ra các Luật hay
các nghị định, các văn bản dưới
luật để hạn chế tối thiểu quyền
tự do báo chí của tư nhân chứ không được
cấm. Bởi cấm báo chí tư nhân là vi phạm
quyền tự do báo chí của công dân, là vượt quá
giới hạn của HP cho phép chính quyền tại
điều 69 quy định quyền tự do của công
dân.
Đó chính là lư do một
bản Hiến pháp thực sự dân chủ (dân làm chủ)
bắt buộc phải được thông qua bằng
trưng cầu dân ư. Đó chính là việc người dân
thông qua và chấp thuận hệ thống quy định
những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết
lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách
nhiệm của một chính quyền. Đây là một việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Qua đó để giúp cho
bạn đọc trong và ngoài nước hiểu
được tầm quan trọng của bản Hiến
pháp sửa đổi sắp tới vào năm 2011, đó
chính là thời điểm mà quyền lực trong tay
của người dân cho phép và giới hạn quyền
lực cho các tổ chức của bộ máy nhà
nước kể cả đảng CSVN phải tuân
thủ. Đồng thời trên cơ sở đó các
tổ chức chính trị đối lập và hệ
thống truyền thông lề bên trái phải phát
động phong trào tuyên truyền và giải thích ư nghĩa
của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến
pháp sắp tới cho mọi người dân để
họ hiểu được quyền lợi và nghĩa
vụ của mỗi cá nhân trong sự việc quan trọng
này.
Khi quyết định một
hệ thống quy định những nguyên tắc chính
trị căn bản và thiết lập kiến trúc,
thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của
một chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân th́
người làm việc đó phải là toàn thể nhân dân Việt
Nam, các đảng phái chính trị và các tổ chức
đoàn thể của nhân dân. Đây không phải là việc
của chính quyền nhà nước, bởi họ chỉ
là những người có trách nhiệm thực thi.
Để cho đảng CSVN và
chính quyền nhà nước chủ trị việc sửa
đổi Hiến pháp khác ǵ cho họ vừa đá bóng,
vừa thổi c̣i. Nếu như vậy nền chính trị
Việt Nam lại luẩn quẩn kiểu “Múa tay trong
bị” như hiện nay mà thôi.
Đừng bỏ lỡ cơ
hội bằng vàng của việc sửa đổi
Hiến pháp vào năm 2011, đây là thời điểm
cực kỳ quan trọng, nó sẽ là bước ngoặt
của sự thay đổi của nền chính trị Việt
Nam. Nếu như các nhà đấu tranh cho dân chủ
biết tận dụng và giành lấy cơ hội này,
để vận động nhân dân đấu tranh đ̣i
Đảng CSVN và chính quyền phải tiến hành một
cách công khai việc tổ chức trưng cầu dân ư bản
Hiến pháp mới 2011 trước khi Quốc hội
quyết định ban hành đưa vào sử dụng.
04/6/2010
Có rất nhiều bài
báo, cuốn sách phân tích, nghiên cứu về việc tại
sao Đảng Cộng sản Việt Nam đă chiến
thắng trong cuộc chiến tranh với Mỹ và với
phe Việt Nam Cộng hoà. Ở đây tôi chỉ xin nói
lại vài điểm trong quan điểm của ḿnh. Tôi
cho rằng, trong cuộc chiến với Mỹ
trước kia, Đảng Cộng sản Việt Nam có
rất nhiều lợi thế và họ đă biết
tận dụng tối đa những lợi thế này.
Một, đó là họ đă khai thác được ḷng yêu
nước, tinh thần chống ngoại xâm mạnh
mẽ của người dân Việt Nam dưới chiêu bài
“chống Mỹ cứu nước” để tiến hành
một cuộc chiến tranh thực tế là v́ quyền
lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam và
của phe xă hội chủ nghĩa mà đứng
đầu là Liên Xô lúc bấy giờ. Hai, họ đă
nhận được sự hỗ trợ về
nhiều mặt từ lương thực, cố vấn
quân sự cho đến vũ khí các loại, chẳng
hề thua kém ǵ sự viện trợ của Mỹ dành cho
Nam Việt Nam, thậm chí trong giai đoạn cuối cùng
của cuộc chiến khi miền Nam bị cắt
giảm viện trợ rồi cúp hẳn th́ viện
trợ của phe xă hội chủ nghĩa dành cho miền
Bắc vẫn hết sức hùng hậu. Ba, họ rất
biết cách tuyên truyền, định hướng dư
luận với nhân dân miền Bắc và với quốc
tế, tranh thủ sự ủng hộ của các phong trào
phản chiến, phong trào xă hội có tính chất khuynh
tả ở các nước phương Tây lúc bấy
giờ, thêm một cái may cho họ là báo chí phương Tây,
nhất là báo chí của chính nước Mỹ, với cách
đưa tin, bài nhấn mạnh về sự kéo dài
của cuộc chiến, những tổn thất về
tiền bạc và nhất là sinh mạng của
người Mỹ, chỉ trích sự sa lầy của
chính phủ Mỹ tại Việt Nam v.v… đă góp phần
làm cho phong trào phản chiến tại Mỹ dâng cao
cộng với dư luận quốc tế dẫn đên
việc Mỹ quyết định rút khỏi Việt Nam.
Và c̣n rất nhiều nguyên nhân khác nữa.
Nhưng đến bây giờ,
nếu xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc,
Đảng và Nhà nước Việt Nam hoàn toàn không c̣n có
những lợi thế đó nữa. Người dân
Việt Nam muôn đời vẫn là một dân tộc
rất có tinh thần yêu nước, nhưng liệu bây
giờ Đảng Cộng sản Việt Nam có c̣n nhận
được sự ủng hộ 100% của nhân dân
nữa không? Những người đảng viên từ
trên xuống dưới, đặc biệt là các cấp
lănh đạo, không c̣n là những người vô sản
như ngày xưa mà trái lại, bây giờ họ có quá
nhiều tài sản, quá nhiều thứ để mất
nên tinh thần chiến đấu chắc chắn cũng
không thể bằng như ngày xưa. Nếu xảy ra
chiến tranh bây giờ, Đảng và Nhà nước
Việt Nam cũng không c̣n ai là đồng minh như đă
từng có Liên Xô, Trung Quốc trước kia… Về
mặt tuyên truyền, hướng dẫn dư luận,
với nhân dân trong nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam không c̣n muốn nói ǵ th́ dân cũng tin và nghe theo,
c̣n trên quốc tế th́ cả thế giới đều
hiểu rơ chủ nghĩa Cộng sản và thực
chất cuộc sống của người dân trong
những quốc gia do đảng Cộng sản lănh
đạo là như thế nào, ngay cả người Nga
bây giờ c̣n phải lên án chế độ Cộng
sản; nên nếu hai nước “anh em, đồng chí” cùng
do hai đảng Cộng sản lănh đạo này có
đánh nhau th́ thế giới cũng phản đối
lấy lệ chứ chẳng ai nhiệt t́nh can thiệp;
t́nh h́nh như vậy đă từng xảy ra khi Trung
Quốc đánh Việt Nam vào những năm 1979, 1988.
Chưa kể nước nào cũng phải nghĩ
đến những quyền lợi của đất
nước họ, nhân dân họ là trên hết, tại sao
họ phải v́ Việt Nam – một quốc gia chẳng
phải là đồng minh của họ – để
đối đầu với Trung Quốc, ảnh
hưởng tới bao nhiêu mối lợi về thương
mại, kinh tế…?
Trước đây, trong cuộc
chiến tranh với một nước dân chủ mà chính
phủ rất sợ phản ứng của người
dân như nước Mỹ, Đảng Cộng sản
Việt Nam tha hồ tận dụng điểm này
để tuyên truyền xách động dư luận
quốc tế và tạo sức ép về mặt dư
luận với nhân dân Mỹ để đến
lượt họ, gây sức ép lại với chính phủ
Mỹ về cuộc chiến tranh hao người tốn
của này. Nhưng với nhà cầm quyền Trung Quốc
th́ nhà cầm quyền Việt Nam thua v́ Đảng Cộng
sản Trung Quốc – cũng giống như Đảng
Cộng sản Việt Nam, thậm chí c̣n hơn hẳn
một bậc, chẳng hề coi nhân dân họ ra kư lô ǵ.
C̣n về việc nướng quân trong chiến tranh th́ Trung
Quốc sẵn sàng chẳng ngán ǵ ai. Trong bài viết “Hiểm
họa diệt chủng”, tác giả Nguyễn
Sơn có nhận xét về việc nếu xảy ra
chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc như sau:
“So
sánh về tư tưởng chiến lược quân
sự tương lai. Chi Hoatian nhận xét: “Lư do mà
nước Mỹ c̣n tồn tại v́ chưa bao giờ có
chiến tranh xảy ra ngay tại trên đất
nước của họ. Nếu t́nh huống chiến
tranh xảy ra hôm nay, tôi có thể tiên đoán là khi
địch quân đă tràn vô tới thủ phủ Hoa
Thịnh Đốn rồi th́ Quốc hội Mỹ
vẫn c̣n bận họp để tranh căi có nên cho phép
Tổng thống của họ tuyên chiến hay không? Đó
là sự khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc. Chúng ta
không phí thời giờ cho những bàn căi vô bổ này.
Đồng chí Đặng Tiểu B́nh đă từng
dạy: “Cái cốt lơi của vấn đề nằm
ở sự nhạy bén của Đảng. Một khi
Đảng đă quyết định, th́ lập tức
mệnh lệnh được thi hành, không mất thời
giờ vô bổ như các quốc gia tư bản”.
Và: “Năo
trạng Trung Quốc từ sau trận chiến biên
giới Việt-Trung cũng không thay đổi. Họ
sẵn sàng thí mạng dân Trung Quốc nếu phải
xảy ra cuộc đối đầu chiến tranh nguyên
tử cũng như không ngần ngại sử dụng
vũ khí hủy diệt nhân loại để chiến
thắng nếu cần. Nếu Thế chiến Thứ hai
hơn 57 triệu người đă bị chết, th́ Thế
chiến Thứ ba sẽ khủng khiếp hơn.
Đối với lănh đạo Trung Quốc mạng
người chỉ là rơm rạ. Bộ trưởng
Bộ Quốc pḥng Trung Quốc tuyên bố câu nói lịch
sử: “Nếu phải hy sinh một nửa dân Trung
Quốc, tức là hơn nửa tỷ dân chết đi
để giữ cho đảng CSTrung Quốc
được tồn tại th́ họ vẫn làm”. V́
nếu bị mất Đảng, tức là mất
đầu tàu, mất lănh đạo, mất phương
hướng th́ Trung Quốc coi như sụp đổ.”
Chưa kể, tất cả
những tṛ ma mănh, thủ đoạn nào mà Đảng
Cộng sản Việt Nam có thể sử dụng với
đối phương th́ Đảng Cộng sản Trung
Quốc c̣n là thầy của họ trong những tṛ này
nữa. Cả hai quốc gia này đều nắm trong tay
toàn bộ ngành báo chí truyền thông trong nước, tha
hồ chỉ đạo cho báo chí nói ǵ th́ nói, muốn
đổi trắng thay đen, sửa đổi lịch
sử, muốn tuyên truyền chính nghĩa về phía ḿnh,
bôi nhọ kẻ thù, kích động ḷng căm thù của
nhân dân, định hướng dư luận trong
nước… tha hồ. Tuy nhiên, cho đến nay, mới
thấy báo chí truyền thông Trung Quốc mạnh miệng
trong lĩnh vực này, thẳng tay chửi Việt Nam là “ḷng lang dạ sói”, “tiểu nhân bỉ ổi không biết
xấu hổ”, rằng nếu “cuộc chiến tranh Trung-Việt
năm 79 vẫn chưa đủ dạy cho Việt Nam
một bài học tơi bời th́ trong bài học lần
này, chúng ta cần làm triệt để, để Việt
Nam có được bài học nhớ đời và cũng
là v́ lợi ích lâu dài của Trung Quốc” hoặc “phải giết bọn giặc Việt
Nam để làm vật tế cờ trong trận chiến
thu hồi Nam Sa” và những kiểu hù dọa, lăng mạ,
bôi nhọ, vu cáo khác nhau trong rất nhiều bài báo
đăng trên một số trang báo mạng chính thức
của Trung Quốc, đă được dịch và
đăng lại trên trang Bauxite
Vietnam gần đây. Trong khi đó th́ báo chí
Việt Nam suốt một thời gian dài không
được phép nói bất cứ điều ǵ bất
lợi cho “mối quan hệ hữu hảo” giữa hai
nước, măi đến gần đây mới thấy
đưa tin ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc
bắt giữ, cướp tài sản, đ̣i tiền
chuộc… chẳng hạn.
Nếu Đảng Cộng
sản Việt Nam chuyên nói ngược, nói một
đằng làm một nẻo th́ Đảng Cộng
sản Trung Quốc c̣n hơn thế nữa. Hăy xem cái cách
Đảng Cộng sản Trung Quốc một mặt
cứ đem chiêu bài 16 chữ vàng trong mối quan hệ
giữa hai nước ra để làm yên ḷng những nhà
cầm quyền Việt Nam nhưng mặt khác vẫn
để yên cho báo chí thóa mạ Việt Nam, cho tàu bè ngang
nhiên bắt bớ ngư dân Việt Nam… th́ đủ
hiểu. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không
biết ngán sợ dư luận thế giới trong hàng
loạt hành vi bắt bớ, giam cầm những
người bất đồng chính kiến, thẳng tay
đàn áp tôn giáo, ngang nhiên tuyên bố chính công an và chính
quyền là thủ phạm tấn công và đánh sập hàng
loạt các trang báo mạng độc lập và trang blog cá
nhân có những quan điểm trái chiều với nhà
nước v.v… th́ Đảng Cộng sản Trung Quốc,
với thế mạnh của một cường quốc
kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới
hiện nay và là chủ nợ của nhiều nước
kể cả Mỹ, càng không coi dư luận thế
giới ra cái ǵ. Nói như thế để nếu có
một cuộc chiến tranh xảy ra giữa Việt Nam
và Trung Quốc, có điều ǵ mà Trung Quốc không dám làm
rồi sau đó phủi tay, t́m cách nói ngược lại
trước dư luận thế giới? Ở Trung
Quốc cũng như ở Việt Nam, làm ǵ có báo chí
độc lập để lên án chính phủ sa lầy
trong một cuộc chiến vô nghĩa, buộc chính
phủ phải rút lui như ở Mỹ? C̣n người
dân Trung Quốc th́ đă được báo chí chuẩn
bị tinh thần, định hướng dư luận
trong suốt một thời gian dài để phần
lớn họ sẽ tin rằng “đánh cho bọn Việt
Nam xấu xa một trận” là đúng.
Tuy nhiên, thiết nghĩ, trong
thời đại này, việc một nước nào đó
sử dụng con đường quân sự, con
đường chiến tranh để đánh chiếm
một nước khác cũng là kế hạ sách. Thay vào
đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc có hàng ngàn
cách khác để vẫn nắm được
Đảng Cộng sản Việt Nam trong tay, qua đó khai
thác tối đa những ǵ có thể khai thác
được từ mảnh đất h́nh chữ S này.
Đó là việc sử dụng sức mạnh mềm –
ở đây là vừa dùng tiền để mua chuộc các
cấp lănh đạo tham nhũng có hạng của
Việt Nam, vừa sử dụng mối quan hệ “láng
giềng hữu hảo”, “anh em đồng chí” như
một lá bùa dán lên miệng để làm yên ḷng giới lănh
đạo Việt Nam; lũng đoạn chính trị,
lũng đoạn kinh tế, làm cho kinh tế Việt Nam
ngày càng phải lệ thuộc vào Trung Quốc, mặt khác,
chiếm đoạt dần dần lănh thổ lănh hải
của Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Dù
là một nước lớn nhưng trong cách hành xử
từ trước đến nay với các nước láng
giềng nhỏ yếu hơn trong đó có Việt Nam, Trung
Quốc chưa bao giờ tỏ ra là một nước
đàn anh chính nhân quân tử, sẵn sàng dùng mọi thủ
đoạn để lừa các nhà cầm quyền
Việt Nam vào tṛng, giành lấy từng kilomet đất,
biển; trong làm ăn kinh tế th́ chỉ toàn tính lợi
cho nước ḿnh c̣n sự mất mát, thiệt hại lâu
dài th́ nước khác phải gánh chịu. Điều này
cũng đang diễn ra trong mối quan hệ của Trung
Quốc với một số quốc gia khác, nhất là
ở Châu Phi.
Trong nhiều năm dài,
Đảng Cộng sản Việt Nam với các thế
hệ lănh đạo liên tiếp chỉ là những kẻ
tham lam, bạc nhược, quan trí thấp, tầm nh́n
ngắn, lại thêm nỗi lo sợ phải bảo vệ
thể chế chính trị này bằng mọi giá, đă thua
trắng tay các thế hệ lănh đạo Trung Quốc vốn
thâm sâu, trăm mưu ngàn kế, lại không che giấu
một tham vọng bành trướng đă ăn sâu vào máu
từ bao đời nay. Đảng Cộng sản Trung
Quốc thừa hiểu nỗi sợ lớn nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải
giữ vững chế độ cho dù có phải chịu
lệ thuộc vào ngoại bang (ở đây là Trung
Quốc), có phải mất đất mất biển;
họ cũng biết rất rơ điểm yếu của
Đảng Cộng sản Việt Nam nằm ở đâu
và họ triệt để khai thác những điểm
này. Chẳng hạn như Đảng Cộng sản
Việt Nam rất sợ mất tính chính danh trước
nhân dân nếu để cho nhân dân thấy giới lănh
đạo Đảng chỉ là bọn bán nước, nhu
nhược, th́ Đảng Cộng sản Trung Quốc
cứ ngang nhiên và thường xuyên cho tàu vào ra vùng biển
thuộc lănh hải của Việt Nam, bắt bớ
đánh đập đ̣i tiền chuộc các ngư dân
Việt Nam… buộc nhà cầm quyền Việt Nam hiện
nguyên h́nh là những kẻ hèn với giặc ác với dân
trong mắt người dân Việt Nam; hoặc nếu
Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ
những bí mật về ông Hồ bị phơi bày ra th́
đó cũng là một trong những con bài để
Đảng Cộng sản Trung Quốc gây áp lực khi
cần v.v… Nói tóm lại, chơi kiểu ǵ, chơi
đường nào th́ Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng dưới cơ Đảng Cộng sản
Trung Quốc mà thôi. Hay nói cách khác, chỉ có Đảng
Cộng sản Trung Quốc là trị được
Đảng Cộng sản Việt Nam v́ tất cả
những lư do trên. Điều đó lư giải v́ sao trước
nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền
Việt Nam trở nên bạc nhược, hèn hạ
đến vậy.
Đảng Cộng sản
Việt Nam v́ những quyền lợi của họ mà
phải hèn nhát chịu cho Đảng Cộng sản Trung
Quốc ép mọi bề, nhưng c̣n nhân dân Việt Nam –
một dân tộc đă từng có một lịch sử lâu
dài vượt qua mọi âm mưu thôn tính, mọi cuộc
chiến tranh tàn khốc, mọi sự nghiệt ngă của
số phận để tồn tại, lẽ nào ngày hôm
nay chúng ta lại chịu để cho lịch sử 1000
năm lệ thuộc phương Bắc sẽ lặp
lại nhưng tinh vi hơn, tàn nhẫn hơn? Lẽ nào
nhân dân Việt Nam lại cứ cam chịu để cho
Đảng Cộng sản Việt Nam và một nhóm
những kẻ nắm quyền lănh đạo cao nhất
được phép thay mặt nhân dân dâng đất, dâng
biển, bán rẻ tài nguyên, biến mảnh đất này
thành nguồn lợi khai thác đồng thời là băi rác
thải của đủ thứ độc hại từ
sản phẩm kém chất lượng cho tới bùn
đỏ bauxite… của nước khác? Đất
nước này không phải chỉ của Đảng
Cộng sản và của một nhóm người để
họ có quyền muốn làm ǵ th́ làm. Bao nhiêu quốc gia
đă chọn được một con đường
đúng để đi, kể cả những quốc gia
từng một thời sai lầm như Liên Xô cũ và các
nước Đông Âu nay cũng đă vượt qua
được quá khứ, sao nhân dân ta phải cam chịu
đi con đường sai thành ra lẻ loi không bè bạn
không đồng minh, một ḿnh đối mặt với
hiểm họa từ phương Bắc?
© 2010 Song Chi
© 2010 talawas
Tôi xin chia sẻ
những ǵ tự t́m hiểu về cái bộ luật
mất ḷng dân này. Ngoài việc đọc lại Luật
(té ra có tới 4-5 cái, và nhiều nghị định, pháp lệnh
đi kèm), tôi c̣n hỏi han những người cao
tuổi, nhất là các nạn nhân. Riêng tôi, có thuận
lợi hơn các bạn trong nhóm – v́ tôi học luật,
lại có ông nội từng ở Ban Soạn thảo
luật 1993.
Chúng ta quan tâm chuyện
đồng bào khiếu kiện triền miên do đất
đai bị “thu hồi” nhưng được
bồi thường quá rẻ mạt. Nhiều bạn
nghĩ do tổ chức đảng ở địa
phương lộng hành. Nghĩ vậy không sai, nhưng
chưa đủ. Cái gốc là do Luật Đất đai
(LĐĐ) đă truất quyền sở hữu
đất của dân, từ đó cán bộ mới có
thể hà hiếp dân.
LĐĐ ở VN đă gây
đau khổ, oan khiên cho hàng chục triệu người,
nhất là nông dân, kể từ khi nó ra đời (1987).
Chính nó giúp tham nhũng tăng lên gấp 4 lần và mỗi
năm rót 10% GDP vào túi bọn tham nhũng, hoặc lăng phí.
Hoàn toàn có cơ sở để đạo luật này
bị gọi là “sản phẩm của tư duy
phản động”.
Suốt 20 năm vận hành, nó
bị cuộc sống chống lại quyết liệt
đến mức đảng CSVN phải sửa
đổi, bổ sung, thay thế… tới 4 lần; và nay
(2008) lại sắp phải thay luật lần thứ 5.
Vậy mà Luật 2008 vẫn chỉ là tạm thời, c̣n
theo thông báo chính thức th́ tới năm 2011 mới hy
vọng có luật “hoàn chỉnh”. Nhưng ngay hôm nay tôi có
thể nói: Không bao giờ có LĐĐ hoàn chỉnh, nếu
không sửa tận gốc. Vậy cái “gốc” đó là ǵ?
Không nước nào dám coi tài
nguyên đất đai là không quan trọng bậc nhất.
Ở Việt Nam lại càng như vậy khi b́nh quân
diện tích đất trên đầu người (vốn
đă thấp) cứ ngày càng thu hẹp do dân số tăng
nhanh. Đảng CSVN ư thức đầy đủ
rằng độc quyền kiểm soát đất đai
ở một nước mà nông dân chiếm trên 70% dân số
sẽ tạo ra quyền lực tối thượng
về kinh tế, qua đó là quyền lực độc tôn
về xă hội và chính trị. Do vậy, Hiến pháp 1980
được một Quốc hội gồm 90%
đảng viên thông qua có ghi một ư mà ngay khi đó
người dân chưa thể nhận ra sự nguy hiểm
cho ḿnh, thậm chí c̣n hả hê v́ thấy “toàn dân” (chung chung)
được đảng đề cao: “Đất
đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ… mà pháp luật
qui định là của Nhà nước đều thuộc
sở hữu toàn dân”. Ông nội tôi bảo: Luật gia
lơi đời như bà Ngô Bá Thành khi giơ tay thông qua
luật c̣n tưởng rằng “đất đai thuộc
sở hữu toàn dân” nghĩa là… đảng sẽ cho
mỗi người dân sở hữu một mảnh
đất (!).
Dựa vào hiến pháp, LĐĐ
1987 (và các năm sau) khằng định: Đất đai
là “tài nguyên quốc gia vô cùng quư giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt không ǵ thay thế
được, là địa bàn phân bố các khu dân cư,
xây dựng các cơ sở khác nhau và trải qua nhiều
thế hệ nhân dân ta tốn bao công sức và xương
máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo
vệ được vốn đất như ngày nay”.
Khi đó, mọi người chưa thể nhận ra
đây là lời mào đầu để ngay sau này
đảng CSVN có lư do biến sở hữu đất
đai của người dân (dù đó là tự mua một
cách chính đáng, tự khai hoang, hoặc do tổ tiên
để lại…) trong nháy mắt thành sở hữu
của đảng. Kinh chưa? Chỉ bằng mấy
tờ giấy mà đảng làm điên đảo cả xă
hội!
Đảng ta giải thích
sự tước bỏ quyền sở hữu đất
đai của dân bằng lư sự như sau: “Đất
đai là kết quả của một quá tŕnh chế
ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm của
cả dân tộc chứ không của riêng ai. Tách khỏi
những điều kiện của nhà nước, của
cộng đồng, th́ không một cá nhân nào có thể khai
phá và giữ ǵn bất cứ mảnh đất nào
để rồi sau đó nói nó hoàn toàn là của ḿnh. Có
chăng, ở đây họ chỉ có công khai phá và sử
dụng nó”.
Ai có công chống ngoại xâm?
Đương nhiên, chúng ta phải học Lịch sử
đảng để hiểu rằng đảng ta có công
chống Pháp và Mỹ. Nhưng đảng cấm chúng ta
nghĩ rằng sự nghiệp chống ngoại xâm là
của toàn dân và có từ thời Hai Bà Trưng, Ngô
Quyền, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng
đạo, Quang Trung… và sau khi đuổi được
giặc th́ người dân thời xưa vẫn có
quyền sở hữu đất. Quyền này vẫn
được thừa nhận trong 80 năm Thực dân
Pháp chiếm nước ta. Ấy vậy mà sau khi
đuổi được Thực dân Pháp th́ đảng ta
lại lư sự rằng không cá nhân nào có quyền sở
hữu đất đai. Đang là chủ sở hữu,
người dân trong nháy mắt chỉ c̣n có “quyền sử
dụng”; trong khi đó, đảng vô sản vốn
chẳng có tư đất nào ban phát cho dân bỗng nhiên
trở thành người có quyền ra lệnh “thu hồi”
(!). Dùng từ “thu hồi” trong LĐĐ chẳng lẽ
không nói lên điều ǵ về năo trạng đảng ta?
Luật 1987 mới thi hành
được 5 năm rưỡi đă bị cuộc
sống chống lại quyết liệt. Sự xáo
trộn xă hội và bức xúc trong dân tới mức đe
doạ, khiến đảng ta phải thay thế nó
bằng Luật 1993. Luật này vẫn không thể “đi
vào cuộc sống”, nên đến 1998 phải bổ sung
nhiều điều. Vẫn không ổn, tới 2003 lại
phải có luật mới. Nhưng chính cái Luật 2003 này
đă tạo ra nhiều triệu dân oan, hàng chục ngàn
cuộc khiếu kiện đông người và dài ngày,
kể cả biến thành biểu t́nh… đến mức
công an phải lộ diện đàn áp. Luật 2003 có công
đầu đưa tham nhũng lên thành quốc nạn.
Chính nó có vai tṛ hàng đầu khiến cho đảng
phải ban hành và thực thi các quy định pháp luật
về “cưỡng chế”, về tội “chống
người thi hành công vụ”, “cấm tụ tập
khiếu kiện quá 5 người”… Nay, lại sắp có
luật 2008.
Biện
bạch cách ǵ th́ sự thay đổi luật soành
soạch như vậy cũng cho thấy “ḷng dân” không
chấp nhận “ư đảng”. Điều này, đảng
ta biết rơ hơn chúng ta.
Ví dụ, sự thi hành luật
1987.
Đối tượng thi hành luật chỉ có 2: dân (ông
chủ, theo học thuyết “làm chủ tập thể”
của cụ Lê Duẩn) và nhà nước (đầy
tớ, có nhiệm vụ… quản lư ông chủ). Luật
1987 khá đơn giản, v́ nội dung chủ yếu
của nó chỉ là quy định quan hệ đất
đai giữa chủ và đầy tớ. Ông chủ tuy
mất hẳn quyền sở hữu đất đai,
nhưng vẫn được đầy tớ cho phép
sử dụng nó, khi cần th́ “thu hồi”. Không có
đối tượng thứ ba nào khác.
Chính khi LĐĐ 1987 có hiệu
lực, mọi người nhận ra một điều: Ư
đồ tiêu diệt tôn giáo, tiêu diệt sở hữu và
tiêu diệt thị trường là ngu xuẩn, là việc
chống Trời.
Tuy về pháp lư, không ai có
quyền mua bán đất, nhưng thị trường
đất đai vẫn tồn tại dưới
nhiều dạng khác nhau, thông qua luồn lách, hối lộ.
Dân vẫn có quyền sở hữu nhà, do vậy khi đă
có nhà hợp pháp th́ đương nhiên chủ nhà
được “quyền sử dụng vĩnh viễn”
(tức sở hữu) miếng đất nằm
dưới cái nhà đó. Do vậy, chuyện ngược
đời những năm đó là mảnh đất
(cố định, tĩnh tại) lại phụ thuộc
vào cái nhà (dễ biến động, có thể mua bán,
đổi chác). Thế là, muốn bán (hay mua) đất
chỉ cần làm cái nhà tạm bợ trên mảnh
đất đó, rồi bán (hay mua) cái nhà đó là… xong.
Cũng bằng cách đó, đất công bị chiếm
dụng vô tội vạ. Người có quyền “cho phép làm
nhà” tha hồ tham nhũng.
Luật 1993. Thấy rơ không thể
xoá được thị trường nói chung và thị
trường đất đai nói riêng, đảng ta cho
phép luật này có những bổ khuyết quan trọng.
Luật cho người dân
được sử dụng đất lâu dài hơn
(tới 20 và 50 năm) đồng thời có 5 quyền
(sử dụng, chuyển quyền sử dụng, thừa
kế, thế chấp và cho thuê đất: nghĩa là
gần như có quyền sở hữu). Mặc dù về
pháp lư, dân không có đất và nhà nước chưa
thừa nhận thị trường đất đai,
nhưng nhờ kẽ hở cố ư của luật,
người ta vẫn mua bán đất; chỉ cần trong
giao kèo ghi là… “giấy chuyển nhượng quyền
sử dụng đất”. Cũng lúc này, đảng
cảm thấy nguy cơ “chệch hướng” ngày càng
lớn, nên dẫu buộc phải công nhận cơ
chế thị trường, nhưng gắn cho nó cái
đuôi “theo định hướng XHCN”. Tới nay,
trải 20 năm, nhiều người cho rằng cái
đuôi này sắp rụng hẳn, kể cả trong thị
trường đất đai.
Ông nội tôi nói lại:
Những người tiến bộ trong nhóm soạn
thảo luật 1993 phải rất khéo léo để không
chạm tới nguyên lư “thép” (đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất
quản lư) mà vẫn đưa được 5 quyền
cho dân. Kỳ công nhất, là đưa được ư “bồi
thường theo giá thị trường” vào văn
bản. Ư này giúp dân có cơ sở đấu tranh và tố
cáo kiểu bồi thường (cướp) đất
hiện nay là bất hợp pháp.
Luật
1993 lạc hậu rất nhanh v́ không chỉ có hai
đối tượng liên quan tới đất đai (như
quy định ở luật 1987) mà c̣n phát sinh các
đối tượng khác: cơ quan nhà nước, các
tổ chức, đoàn thể, nông trường,
đất của quân đội… Và thiếu những qui
định về quỹ đất tạo cơ sở
hạ tầng, chuyển đổi đất nông
nghiệp sang mục đích khác và thiếu cả qui
định chế độ sử dụng đất
của các cơ quan, tổ chức… Chính v́ vậy, chỉ
sau 1 năm, đă có tới hai pháp lệnh được
bổ sung để cấp cứu.
Với luật 1993, thị
trường đất được ngấm ngầm
phục hồi, sự mua bán công bằng và tấp nập
hơn, giá cả phản ánh đúng giá trị của
đất.
Luật
này chứa đựng mầm tham nhũng và rối
loạn. Ví dụ quyền “giao đất” ngang với
quyền sinh sát, rất dễ quy đổi ra tiền.
Nhưng bất công và đau khổ xảy ra ngay lập
tức mỗi khi bọn đầy tớ “thu hồi”
đất mà mà chúng tạm giao cho ông chủ. Tuy trên văn
bản có ghi rơ: đất bị thu hồi được
bồi thường theo giá thị trường, nhưng “giá
thị trường” ở đây lại “theo
định hướng XHCN”, nghĩa là do “đầy
tớ” quy định. Đây chính là nguyên nhân khiến
người dân thấy rơ ḿnh bị ăn cướp.
Khiếu kiện triền miên cũng từ đó mà ra. Cho
tới năm nay, 2008, đảng thừa nhận rằng
giá đất do nhà nước quy định để
“đền bù” chỉ bằng 60% giá thực tế trên
thị trường. Vậy, “thu hồi” là cướp
trắng trợn 40% tài sản.
Các luật về cưỡng chế,
trừng trị “kẻ” chống người thi hành công
vụ đă hỗ trợ đắc lực LĐĐ mỗi
khi đảng “thu hồi” một diện tích lớn.
Chưa đủ, về sau c̣n có nghị định
“cấm tụ tập trên 5 người để khiếu
kiện”. Từ đó, trên báo chí, chủ đề liên quan
đất đai chiếm tỷ lệ loại cao
nhất.
Luật 1998 quy định việc
(đầy tớ) giao đất cho các loại chủ (cá
nhân và tổ chức), có thu tiền và không thu tiền
sử dụng (thuê đất). Việc mua bán đất
chưa được thừa nhận chính thức, do
vậy vẫn được nguỵ trang dưới
dạng “chuyển nhượng quyền sử dụng” và
phải có sự cho phép của cấp có thẩm quyền.
Nhiều người giàu lên bất thường v́ có
quyền “cho phép”.
Trong
cuộc họp báo ngày 7-3-2008 về sửa LĐĐ 2003, ông
bộ trưởng Tài nguyên–Môi trường nói có 8 nội
dung phải sửa và “phải sửa ngay”: 1- vấn
đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất; 2- giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất; 3- tài chính về
đất đai, giá đất; 4- cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất; 5- thời hạn sử dụng đất; 6- quyền
sử dụng đất khi cổ phần hóa, lên sàn giao
dịch chứng khoán; 7- thủ tục hành chính trong
quản lư và sử dụng đất; 8- quản lư và phát
triển thị trường bất động sản.
Qua đó, ta thấy nhiều điều đă phát sinh mà
luật 2003 không lường trước, đồng thời
nhiều vấn đề do sự ngoan cố về quan
điểm và lập trường.
Ví dụ nội dung 4 cho thấy
dân vẫn mất quyền sở hữu đất,
nhưng nội dung 3 (giá đất) và 8 (thị
trường bất động sản) lại cho thấy
sức mạnh vô địch của cơ chế thị
trường đối với mọi phản động
lực dám chống lại nó. Hy vọng sẽ tới lúc
thắng bại phân minh.
Trong hội nghị có người
khen ngợi tính hiệu dụng và tiện lợi rất
cao của bằng khoán điền thổ (giấy công
nhận sở hữu đất thực hiện từ
năm 1927 và đề nghị đảng ta nên học theo
cách đó (của Thực dân, Phong kiến). Chuyện
cấp riêng rẽ “sổ hồng” (công nhận sở
hữu nhà, do Bộ Xây dựng cấp giấy) và “sổ
đỏ” (chỉ công nhận “quyền sử dụng
đất”, do bộ TN-MT cấp) đang bị phản
đối dữ, dư luận đang đ̣i hỏi
gộp lại… (xem vấn đề 4 ở trên). Cái nguyên
lư thép về “sở hữu toàn dân” đang núng thế.
Nhưng vấn đề
nổi cộm nhất vẫn là giá đất “thế nào
là theo giá thị trường” (không kèm định
hướng XHCN). Đây là điều mà tất cả các
tờ báo đều nêu rơ sau cuộc họp báo. Mời các
bạn đọc bài trên các báo khác nhau phản ánh nội
dung cuộc họp báo nói trên và ư kiến, quan điểm
của các tờ báo.
Những
ǵ c̣n rơi rớt lại của mô h́nh XHCN “cũ”:
1. Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, do nhà nước (của đảng,
do đảng, v́ đảng) thống nhất quản lư.
Hậu quả: a) đất công bị chiếm dụng vô
tội vạ; b) tham nhũng tràn lan; c) khi trưng dụng
đất tư nhân cho việc công ích lẽ ra cần coi
người mất đất là những người có
công, hy sinh, phải bồi thường cao hơn giá
thị trường th́ lại làm ngược lại.
2. Quốc doanh là chủ
đạo (mặc dù quốc doanh chiếm dụng 70%
vốn nhà nước nhưng chỉ dưa lại 30% lăi,
nhưng nếu không thế th́… mất CNXH)
3. Cái đuôi “định
hướng XHCN” gắn vào cơ chế thị
trường khiến thị trường không phát huy
hết tác dụng tích cực, mà c̣n ngược lại
4. Tất cả những ǵ
ở trên chỉ để tạo cớ cho đảng ta
cai trị dân vĩnh viễn
http://danluan.org/node/5184#comment-16030
Mùa xuân
năm nay, người Việt (trong nước) kỷ
niệm lần thứ 35 ngày thống nhất đất
nước. Vào tháng 10, đến lượt người
Đức sẽ ăn mừng 20 năm ngày đoàn kết
quốc gia. Tuy vậy, hai biến cố này không thể so
sánh với nhau được, ngoài chuyện là một
sự chia cắt tùy tiện đă chấm dứt. Sự
khác biệt rất lớn và có thể được mô
tả như sau:
•
Tại Việt Nam, sự thống nhất đến sau
một cuộc chiến khốc liệt khởi
xướng năm 1960 bởi Cộng sản miền
Bắc chống lại chế độ thân Tây phương
tại Miền Nam. Tác giả William Lloyd Stearman, nguyên
trưởng ban An ninh Quốc Gia về Đông Nam Á từ
1973-1976 đă viết trong một bài báo trên tờ Military
Review: “Chiến thắng của Hà Nội là kết quả
của sự áp đặt chủ nghĩa Cộng sản
lên một thể chế đặc sắc miền Nam
Việt Nam Tự do.” Từ hai đến ba triệu
người đă thiệt mạng. Nhiều người
Mỹ tin vào luận điệu Cộng sản cho rằng
đó là một cuộc chiến “Giải phóng Quốc gia.”
Thực chất, đó chính là cao điểm âm mưu 50
năm của Cộng sản Quốc tế nhằm
đặt chân lên Đông Nam Á.
•
Nước Đức có một kết quả khác hẳn.
Tại đây, một cuộc cách mạng ôn ḥa trong nội
bộ Cộng sản Đông Đức đă đưa
đến một cuộc thống nhất không đổ
máu với nước Tây Đức dân chủ. Ngày nay toàn
nước Đức, không riêng ǵ Tây Đức, đă
trở thành một quốc gia tự do, giàu mạnh với
một xă hội tốt đẹp sau cuộc Chiến
tranh lạnh tiến hành bởi chính cái cường
quốc đă gởi tay sai Cộng sản VN đi chém
giết và hi sinh v́ những lư do ư thức hệ. Những
tay sai của Moscow đă thành công năm 1975 tại VN.
Nhưng tại Đức, họ đă thất bại 15
năm sau.
•
Tại VN, CS đă lộ ra là những kẻ thắng
cuộc đầy ḷng hận thù. Họ đă tập trung
hàng trăm ngàn sĩ quan và nhân viên chế độ cũ
vào trong trại cải tạo, bỏ đói họ và trong
nhiều trường hợp, đă tra tấn họ.
Mặc dù phát ngôn viên của nhà cầm quyền Hà Nội
đă trâng tráo phủ nhận trong điện thư
gởi cho báo The Beat (xem bài chủ), đă có quá nhiều
bằng chứng chỉ rơ những sự đánh
đập tù cải tạo là có thực. Công tŕnh nghiên
cứu khoa học của một chuyên gia tại Đại
học Harvard đă chứng minh điều đó.
•
Tại Đức, quân đội Nhân dân Quốc gia Đông
Đức, một quân lực hùng hậu hàng thứ hai
thuộc khối Hiệp Ước Warsaw đă
được giải tán qua đêm mà không đổ
một giọt máu. Nước Đức thống nhất
đă không truy tố các sĩ quan Đông Đức mặc
dù trước đó họ luôn sẵn sàng xâm chiếm Tây
Đức theo lệnh của Moscow. Các cấp tướng
tá cao cấp trong đảng CS Đông Đức
đều được giải ngũ cho về với
gia đ́nh. Đó là tất cả những ǵ gọi là
khốn khổ nhất đối với họ.
•
Những người sống tại Miền Nam Việt Nam
đă bỏ xứ ra đi bất kể nguy nan có thể
xảy ra với tính mạng họ; hàng trăm ngàn
người đă chết đuối khi những chiếc
thuyền nan bị đắm trong biển cả.
Người Việt tỵ nạn đă phân tán ra trên
hơn 60 quốc gia, trong đó tại nước
Đức, một người gốc Việt Nam 37
tuổi đă vươn lên được một chức
vụ cao trong chính quyền Đức, làm đến
bộ trưởng y tế Liên bang Đức.
•
Đúng là có hàng trăm ngàn người Đông Đức
phải bỏ nhà ra đi, nhưng họ không hề bị
nguy hiểm đến tính mạng, cũng như không
hề phải bỏ xứ ra đi. Họ đă làm
những ǵ mà họ vẫn hằng mơ ước –
được di chuyển tự do trong đất
nước và định cư nơi nào có công ăn
việc làm. Nói cách khác, họ chỉ thực hiện
quyền tự do mà Hiến pháp đă qui định,
điều mà chủ nghĩa CS đă ngăn cấm họ
trong 40 năm qua.
Những người yêu tự
do Đông Đức đă thừa hưởng kết
quả từ ḷng quả cảm của họ, từ
sự hỗ trợ sắt đá của các nguyên thủ
quốc gia trên toàn hế giới, đặc biệt là TT
Ronald Reagan và TT George H.W. Bush, và từ các Giáo hội đă
cung cấp cho họ nơi tạm trú lúc di chuyển. Các
Giáo hội cũng đă đưa lời khuyên thích đáng
nhất: không bạo động! Bản thuyết giáo các
mục tử truyền bá ngày 9-10-1989 trước hàng trăm
ngàn người biểu t́nh trong “Diễu hành v́ Ḥa b́nh ngày
Thứ hai” đă mang một ư nghĩa đặc biệt.
Bản văn được trích từ Sách Châm ngôn [ct: trong Kinh Thánh] chương
25, câu 15: “Với ḷng kiên nhẫn, kẻ cai trị sẽ
được thuyết phục, và một cái lưỡi
mềm sẽ bẻ găy một khúc xương.”
Đối
nghịch lại, Cộng sản Bắc Việt đă
lợi dụng một “hậu phương” nước
Mỹ rời rạc, trong đó hẳn nhiên cũng có
những người yêu chuộng ḥa b́nh chân chính, nhưng
đối với sự quan sát của bản thân
người viết này, phần đông gồm những
thành phần hoang tưởng, kém hiểu biết,
nghiện ngập và ích kỷ. Họ nhẫn tâm phất cao
lá cờ Việt Cộng của kẻ thù, miệng hô to:
“Ho, Ho, Ho Chi Minh.” “Hăy gieo t́nh, đừng gây chiến” là
khẩu hiệu của phong trào hoà b́nh vào thập niên 60.
Thái độ tàn nhẫn và vô cảm của người
dân Mỹ khi đón tiếp các cựu chiến binh Việt
Nam trở về là một trong những khiá cạnh kém
hấp dẫn nhất của nước Mỹ, một
đất nước tôi yêu mến và ngưỡng mộ
nhưng thỉnh thoảng vẫn lộ ra những sự
yếu kém rất đáng buồn.
Thiết
tưởng cũng nên nhắc lại điều mà tôi
vẫn thường viết, và cũng như tác giả
William Lloyd Stearman đă tŕnh bày trong bài viết trên tờ
Military Review: Sự sai lạc của thông tin báo chí lớn
đă giúp tạo ra một thành kiến trong người dân
và chuyển thắng thành bại. Tôi đă thấy hàng ngàn
người dân bị sát hại trong những hố chôn
tập thể, trên đường phố Huế, nạn
nhân của đồ tể Cộng sản. Tôi cũng
đă chứng kiến thân xác bị hành h́nh của gia
đ́nh trưởng làng miền Nam Việt Nam, bị
Việt Cộng treo cổ trên cây cùng với thân nhân sau
một cuộc tấn công. Trong những buổi họp báo
hàng ngày tại Sài G̣n, những sự việc này chỉ
được mô tả như những con số thống
kê vô nghĩa. Những cuộc tàn sát này không đơn
thuần là những “tai nạn xung đột vũ trang,”
mà là một phần không thể tách rời của Giai
đoạn 2 trong Chiến lược Chiến tranh Du kích,
gọi là giai đoạn Khủng bố.
Tác
giả Stearman rất đúng khi nhận định Việt
Nam Cộng Ḥa, một đất nước bị
phản bội và chịu diệt vong, đă từng là là
một quốc gia tự do đáng được chú ư.
Tự do tới mức phải hứng chịu thị phi
cho đến lúc bị tiêu diệt. Đất nước
này đă dân chủ đến nỗi năm 1967, vào lúc cao
điểm nhất cho sự sống c̣n, vẫn tổ
chức được bầu cử tự do. Trong khi
đó, những thể chế dân chủ khác dù lâu
đời hơn chắc đă phải hoăn những
cuộc bầu cử như vậy trong hoàn cảnh
tương tự. Tờ New York Times đă ghi nhận
một tỉ lệ đi bầu đáng kinh ngạc là 83%
mặc dù người đi bầu bị hăm dọa
sẽ bị Việt Cộng sát hại. 84% là con số có
thể làm chính bản thân nước Mỹ phải
mắc cỡ.
Quốc
gia tự do đáng kinh ngạc này ngày nay đă bị thay
thế bởi một chế độ mà tổ chức
Quan sát Nhân quyền (Human Rights Watch) xếp
hạng là một trong những thể chế phạm
tội tồi tệ nhất. Tuỳ viên báo chí của
chế độ này tại Washington đă trơ trẽn
trả lời báo The Beat trong một điện thư: “Sau
cuộc thống nhất vào năm 1975, chính sách nhất quán
của VN nhắm vào ḥa hợp ḥa giải quốc gia
nhằm xây dựng một đất nước đoàn
kết và hùng cường. Những thành tựu đáng
kể về đối nội cũng như đối
ngoại đă ghi nhận rơ ràng sự thành công của chính
sách này.”
Có
rất nhiều cách để xây dựng một
“đất nước đoàn kết và hùng cường,”
như nước Đức đă t́m ra cho chính họ và
tránh thế giới phải bận tâm vào. Dưới
chế độ độc tài, sự kiện
người dân Việt Nam cần cù và khéo léo vẫn
tạo được những thành tựu chắc
chắn không phải do công lao của đảng Cộng
sản.
Tại
những thành phố như West minster và Garden Grove tại
Califor nia, một số người lớn tuổi vẫn
c̣n phải chịu đựng những sự đau
đớn, hậu quả của việc đối
đăi tàn nhẫn của Cộng sản Việt Nam sau
“chiến thắng” 1975. B́nh an và ḥa hợp chưa bao
giờ đến với họ.
Họ
xứng đáng được sự cảm thông,
được biết ơn và ḷng ngưỡng mộ
của những người bạn Mỹ láng giềng -
ngưỡng mộ v́ họ đă không hề than van và
biết ơn v́ những sự đóng góp của cho
đất nước Hoa Kỳ này trong 35 năm qua.
Điều
này dẫn chúng ta đến một ư nghĩ cuối cùng:
Với tinh thần ư thức cao về lịch sử,
người Việt Nam chắc hẳn đă hiểu rơ
một chân lư của lịch sử là: “Mọi điều
không bao giờ dùng lại ở hiện tại mà luôn luôn
mở rộng ra cho tương lai.”
Duy Anh chuyển ngữ
TDNL
hiệu đính
©
DCVOnline
Đừng nghe những ǵ
Cộng sản nói.
Hăy nh́n những ǵ Cộng
sản làm.
Sông có thể cạn, núi có
thể ṃn, nhưng chân lư ấy không bao giờ thay
đổi.
Ngày nay hầu
như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều
lấy năm Chúa Kitô giáng sinh làm mốc định
thời gian. Chúng ta đang
ở vào năm 2010, tức là 2010 năm kể từ ngày
Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay
lịch sử cũng được xác định
dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ
kiện đó hoàn toàn không liên quan ǵ đến niềm tin
tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẳng hạn nhà toán học
Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công
nguyên, Tề Hoàn Công trị v́ từ năm 685 đến
năm 643 trước Công nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng xảy ra năm 42 Công nguyên… Các văn bản
bằng tiếng Anh th́ dùng BC (Before Christ: Trước
Đức Kitô, BBT) hoặc AD (Anno Domini: Năm của Chúa,
BBT) để chỉ những sự kiện xảy ra
trước hoặc sau Thiên Chúa giáng thế. Riêng
người Việt Nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí
Bắc, từ sau 30-04-1975, lại có một mốc
định thời gian mới: “Hồi trước
giải phóng” hay “Hồi sau giải phóng”. Tất nhiên
người Việt ḿnh nghe măi rồi quen tai và không
thấy ǵ phản cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ
này… Nhưng khi tôi vô t́nh dùng nó lúc nói chuyện với một
đồng nghiệp người nước ngoài rằng
“…After the liberation of the South…” th́ ông ta sửng sốt hỏi
ngay rằng “…liberation from what?...” (Giải phóng khỏi
cái ǵ?) th́ tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm
từ này để định mốc thời gian của
người Việt… Bởi đối với hầu
hết người Việt, nhất là người
miền Nam hoặc đối với cả đồng bào
miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, th́
“giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả
đời người…
C̣n nhớ ngày 30-04-1975, lúc đó
chúng tôi -c̣n là sinh viên của đại học sư
phạm Vinh- đă hồ hởi, phấn khởi ḥ reo
meeting nhiều đêm ngày để mừng miền Nam
được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin
rằng từ đây đồng bào miền Nam ruột
thịt của chúng tôi sẽ không c̣n đói rách lầm than
và không c̣n sống trong cảnh “ngụy kềm, Mỹ hăm”
nữa… Họ đă được đảng và Bác cùng
nhân dân miền Bắc chúng tôi giải phóng! Và những tháng
tiếp theo đó, chúng tôi được tận mắt
nh́n thấy hàng đàn hàng lũ “bọn ngụy quyền ác
ôn” bị sự trừng phạt của chính quyền cách
mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng
tôi… Số là mỗi tuần một lần, chúng tôi
được chính quyền và Ban giám hiệu nhà
trường thông báo những ngày giờ có những ô tô
của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là
những sỹ quan ngụy quyền ác ôn của chính
quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa
phương để đến các trại cải
tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng
bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải
chuẩn bị đầy đủ cơ số đá
trứng nhặt từ đường ray xe lửa,
để khi đoàn xe tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút
những trận mưa đá lên đầu những tên
“ngụy quyền ác ôn” này, bởi chúng có quá nhiều nợ
máu với nhân dân, với đất nước… Và sau
mỗi lần trừng trị “bọn ngụy quyền ác
ôn” đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được
tuyên dương khen thửơng, được kết
nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào
hàng ngũ của đảng v́ đă đả thương
được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó.
Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công,
chúng tôi cũng bị phê b́nh kiểm điểm v́ đă
không có trường hợp thương vong nào
được ghi nhận trong những vụ “tập kích”
đó…
Kết thúc 4 năm đại
học với vô số những cuộc tập kích
để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng
tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi
được đảng và nhà nước chi viện vào
miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng
bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u
tối lầm than v́ cứ liên miên bị ngụy kềm,
Mỹ hăm chứ đâu có được học hành ǵ…
Chúng tôi thực sự choáng
ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng
Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng…
rồi Nha Trang, Sài G̣n rồi về Miền Tây, đến
thị trấn Cao Lănh. Đâu đâu cũng lầu đài
phố xá chứ có tường đất mái tranh như
ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!
Nhận xong nhiệm sở
từ Ty giáo dục Đồng Tháp, chúng tôi được
đưa về công tác tại trường Trung học
Sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm của
thị trấn Cao Lănh.Và tại đây, trong suốt
nhiều năm liền, chúng tôi được bố trí
ở tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách
mạng đă tịch biên từ tên tư sản Thiên
Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến
choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu
tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách
sạn”, biết được thế nào là Lavabo, là
hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh,
cả tỉnh Nghệ An chúng tôi, hay thậm chí cả
miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng
hố xí lộ thiên, để c̣n dùng nguồn “phân Bắc”
này để canh tác, để tăng gia sản xuất
theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của
đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được
Bác Hồ khen thưởng và có thơ ca ngợi rằng: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh. Anh
về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xă Hưng
Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ c̣n có cả
những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xă viên
can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí
của láng giềng để nộp cho hợp tác xă… Tôi
thấm thía hơn với những câu thơ ca ngợi
miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài
sinh viên học sinh chúng tôi ra th́ hầu như cả nhân dân
miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm
ḷng: “Dọn tí phân rơi
nhặt từng ngọn lá. Mỗi ḥn than mẫu thóc cân ngô.
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi bắt đầu nghi ngờ
với cụm từ “Giải phóng miền Nam”… Rồi
những trận đổi tiền để đánh
tư sản, rồi nhiều nhà cửa của
đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu
đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi,
nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng
vắng dần theo làn sóng đi t́m tự do đó… tôi
bắt đầu hiểu đích thực ư nghĩa của
cụm từ “Giải phóng niền Nam” và bắt
đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm
sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản
thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được
xem là thành phần trí thức trong xă hội…
Dần dần tôi hiểu sâu
hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ
“GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng
tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng miền
Nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm
hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng
nữa với gia sản có thể đột ngột
tăng lên cả 16 tấn vàng ṛng… nhưng tất nhiên
chỉ cho một thiểu số trong xă hội, chỉ
chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu
dân lúc bấy giờ thôi… C̣n lại th́ “giải phóng”
đồng nghĩa với cảnh côi cút v́ "sinh Bắc
tử Nam" mất con, mất chồng, mất cha,
mất anh mất em, bởi họ đă vào chiến
trường và không bao giờ trở về nữa…
Giải phóng cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo
nơi rừng thiêng nước độc, là mất
vợ mất con, mất nhà cửa ruộng vườn,
mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất
hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả
Tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng”
cũng chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho một nhóm
quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh nỗi
hăi hùng của muôn dân, bởi sau "giải phóng mặt
bằng" là hàng trăm đồng bào lại phải vô
tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công
vụ”, bởi sau giải phóng mặt bằng là cái
chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng, là thương
tật của nông dân Lê Thị Thanh và Lê Hữu Nam…
Chẳng biết người dân
Việt Nam từ nay c̣n dùng cụm từ “trước ngày
giải phóng” hay “sau ngày giải phóng” để định
mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy
quá căm thù nhân loại bởi đă bịa ra từ
ngữ “giải phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà chi
để dân Việt chúng tôi v́ nó mà phải khổ lụy
đến dường này.
Đồng
Tháp ngày 29-5-2010
như
tê liệt không ngăn chặn được quân Trung
Quốc lộng hành suốt mấy năm qua.
Theo thống kê của nhà
nước, chỉ riêng năm 2009, quân Trung Quốc đă
bắt giữ 33 chiếc tầu 17 tàu đánh cá và bắt
cóc 433 ngư phủ Việt Nam, trong số đó khoảng
210 ngư dân thuộc đảo Lư sơn và huyện B́nh
Sơn tỉnh Quảng Ngăi. Ngày 4 tháng 5 năm nay, ông
Đặng Tầm và ngư dân Quảng Ngăi đă bị lính
Trung Cộng bắt cóc, mười ngày sau họ
được thả về sau khi chịu nộp tiền
phạt 200 triệu đồng Việt Nam, tiền
chuyển qua một ngân hàng ngoại quốc ở Trung
Quốc. Chiếc tàu của họ, chỉ c̣n vỏ tàu
với máy tầu, c̣n mọi máy móc trang bị khác, cùng
với hải sản, xăng dầu, lương thực
dự trữ đă bị cướp sạch, chỉ
chừa lại ít dầu để cho họ trở
về.
Tuần này, dư luận trong
nước đă được khuấy động sau
khi Trung Cộng đơn phương ra lệnh cấm
tất cả mọi người không được
đánh cá trên Biển Đông, trong vùng chung quanh Hoàng Sa và
Trường Sa mà họ coi là “ao nhà” của họ. Lệnh
đưa ra từ đầu tháng 4, Chủ Nhật 16 tháng
5 được thi hành, sau đó mới có một ít báo,
đài ở miền Nam đưa ra những lời
phản đối của người dân. Những năm
trước đây Trung Cộng đă từng ban ra
những lệnh tương tự, nhưng năm nay là
lần đầu tiên dư luận dân Việt mới
được đưa ra trên báo chí.
Về phía chính quyền, mới
nghe tỉnh Quảng Ngăi lên tiếng khuyến khích ngư
dân cứ tiếp tục đánh cá ngoài khơi, không cần
tuân theo lệnh cấm của Trung Cộng. Họ c̣n
hứa sẽ cho “bộ đội biên pḥng” hỗ trợ
các ngư phủ. Nói “hỗ trợ” chứ không nói “bảo
vệ!” Ông Trương Ngọc Nhi, phó chủ tịch UBND
tỉnh Quảng Ngăi nói với một mạng lưới
trong nước: “Tỉnh Quảng Ngăi kêu gọi ngư dân
đoàn kết thành lập tổ, đội tự
quản tàu thuyền hỗ trợ lẫn nhau tiếp
tục vươn ra khơi đánh bắt thủy
sản.” “Vươn ra,” nói th́ dễ, trẻ con cũng nói
được.
Đây là một thái độ vô
trách nhiệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trước hết, lệnh cấm của Trung Cộng là
một chính sách quốc gia của họ; Việt Nam
phải trả lời trên b́nh diện quốc gia ngang hàng;
không thể để cho chính quyền một tỉnh lên
tiếng. Một tỉnh đó không thể đứng ra
nói chuyện với quốc gia khác, cho nên chỉ biết
tỏ thái độ bằng cách ra lệnh cho dân chúng
của ḿnh mà thôi. Nhưng nếu các ngư phủ Việt
Nam cứ nghe theo lời khuyến khích trên mà khi họ ra
khơi lại bị bộ đội Trung Quốc bắt
giam, cướp bóc và đánh đập th́ sao? Ngân hàng
của nhà nước lại tiếp tục chuyển
tiền của dân nộp cho bọn “cướp biển”
đó hay sao?
Lời hứa “cho bộ
đội biên pḥng hỗ trợ” là một câu nói vô giá
trị. Làm sao người dân Quảng Ngăi và toàn dân Việt
Nam có thể tin vào lời hứa đó được? V́
bổn phận thường xuyên của “bộ đội
biên pḥng” một nước lúc nào cũng phải bảo
vệ người dân nước ḿnh, không phải
đợi đến khi bị ngang nhiên khiêu khích mới
lên tiếng hứa hẹn. Nhưng từ bao nhiêu năm
nay, ngay trong năm 2010 và ngay đầu tháng này, các ngư
dân Việt Nam bị bắt cóc, bị đánh đập,
bị đ̣i tiền chuộc, có thấy “bộ
đội biên pḥng” nào cứu họ, giúp họ không?
Những lúc đó “bộ đội biên pḥng” đang
ngủ ở đâu?
Nước Mă Lai Á nhỏ hơn
Việt Nam, dân ít hơn Việt Nam, nhưng chính quyền
nước họ có thái độ khác hẳn. Đầu tháng
4 vừa qua, Trung Quốc đă điều hai tàu Ngư
Chính đến tuần tra trong khu vực Trường Sa,
cách đảo Hải Nam của Trung Quốc gần 1,200
km. Khi tới phía Bắc đảo Borneo, chiếc tàu Trung
Cộng đă bị tàu chiến Malaysia bám theo sát trong
khoảng thời gian 17 tiếng đồng hồ, trong hai
ngày 29 và 30 tháng 4. Có lúc tàu Malaysia theo sát chỉ cách tàu Trung
Quốc khoảng 300 mét. Báo chí Trung Quốc nói các binh sĩ
trên tàu Mă Lai đầu đội mũ sắt với
tư thế sẵn sàng chiến đấu, 4 binh sĩ
tiến vào sau các khẩu pháo để chờ bắn, có
ṇng pháo chĩa thẳng vào tàu Trung Cộng. Một phi cơ
chiến đấu của Malaysia xuất hiện bay phía
trên tàu Trung Quốc, bay lượn liên tục, hai lần
trong một ngày. Cuối cùng chiếc tầu Trung Cộng
phải rút lui.
Người Việt Nam có
cần phải sợ hăi trước Trung Quốc hơn
người Mă Lai hay không? Nhà cầm quyền cộng
sản phải trả lời.
Malaysia chắc chắn không
muốn gây chiến tranh, mà chắc Bắc Kinh cũng
phải biết như vậy. Chính phủ Mă Lai
cương quyết đuổi tầu Trung Cộng đi chỉ
v́ bất đắc dĩ, phải bảo vệ thể
diện quốc gia và ǵn giữ các quyền lợi kinh
tế của dân.
Nhưng tại sao Malaysia không
sợ Trung Quốc? V́ ai cũng biết rằng trong
thế giới hiện nay một nước mới
đang muốn ngoi lên hàng cường quốc như Trung
Quốc không thể nào tấn công, xâm chiếm một
nước nhỏ mà sống yên ổn được.
Tất cả thế giới, nhất là các nước
trong vùng Đông Nam Á sẽ đứng về phía nước
nhỏ bị bắt nạt mà chống lại Bắc Kinh;
giống như các nước đă tẩy chay Nga khi Putin
muốn lấn áp các chư hầu cũ ở Đông Âu.
Nếu Trung Quốc đánh một nước nhỏ láng
giềng, cả thế giới sẽ tẩy chay ngoại
giao, nhưng miếng đ̣n đáng sợ nhất sẽ là
bao vây kinh tế. Trung Quốc không thể nào chịu
đựng được sự trừng phạt đó.
Nước Tầu hiện đang sống nhờ ngoại
thương. Đạo quân kinh tế của họ đang
đi khắp Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh để chinh
phục cảm t́nh. Họ sẽ bị cả thế
giới nghi ngờ nếu gây chiến với một
quốc gia khác.
Chính phủ Bắc Kinh không bao
giờ muốn hy sinh bỏ đi tất cả những
thành tựu kinh tế trong 30 năm qua nhờ biết ḥa
hiếu với các nước khác, chỉ để
thỏa măn một tham vọng lănh hải trong một vùng c̣n
nhiều tranh chấp. Mặt khác, Trung Quốc vẫn có
thể được hưởng nhiều quyền
lợi kinh tế trong vùng Biển Đông dù phải
nhượng bộ một phần nào về chủ
quyền trên các đảo đang bị tranh chấp.
Từ năm 1950 Bắc Kinh mới tham dự một
cuộc chiến tranh ở bán đảo Hàn Quốc; mà
đáng lẽ họ phải tấn công Đài Loan từ 60
năm trước đây, nhưng không bao giờ hành
động. Đó là một con chó sủa rất to nhưng
không cắn.
Cho nên không có lư do nào để
Malaysia phải khiếp sợ Trung Quốc. Đối với
Việt Nam cũng vậy. Tất cả những luận
điệu tỏ ư run sợ trước sức mạnh
quân sự của nước Tầu chỉ nói ra
để che giấu thái độ khiếp nhược
của một nhóm người cầm quyền mà thôi.
Lịch sử cho ta thêm nhiều lư do để
người Việt Nam không cần sợ Trung Quốc
hơn người Mă Lai.
Chính quyền Malaysia chỉ
chống Trung Cộng trong thời gian Bắc Kinh khuyến
khích và yểm trợ đám cộng quân nổi loạn
trong xứ họ thời 1950, dẹp yên cộng sản th́
thôi. Người Việt Nam th́ có quá khứ khác hẳn. Dân
ta đă có nhiều kinh nghiệm chiến tranh với Trung
Quốc; mà chính quyền Trung Hoa đă nhận
được nhiều bài học đáng giá khi gây hấn
và xâm chiếm Việt Nam trong 2 ngàn năm qua. Cho nên
người Việt Nam lại càng không cần khiếp
sợ trước thế lực quân sự của Trung
Quốc. Ngày xưa các đạo quân của Toa Đô, của
Liễu Thăng cũng mạnh hơn quân Việt Nam. Mà
trong thời gian đó toàn thể lực lượng quân
sự, tài nguyên kinh tế của nước Trung Hoa th́
vẫn mạnh gấp hàng ngàn lần sức lực
của nước ta. Nhưng tổ tiên chúng ta không
khiếp sợ. Trung Cộng chỉ đem quân đánh
Việt Nam gần đây, năm 1979 khi chính quyền
cộng sản để cho nước ta bị cả
thế giới tẩy chay v́ chiếm đóng Cam Pu Chia.
Đặng Tiểu B́nh dám “cho cộng sản Việt Nam
một bài học v́ vô ơn bạc nghĩa” khi hầu
hết các cường quốc và các nước vùng Đông Nam
Á cũng muốn cho Cộng Sản Việt Nam một bài
học!
Nói những điều trên
đây không có nghĩa là chúng ta muốn có một cuộc
chiến tranh với Trung Quốc. Không muốn chiến
tranh, nhưng phải làm mọi cách bảo vệ quyền
lợi của người dân nước ḿnh, phải làm
mọi cách giữ ǵn danh dự, thể diện dân tộc.
Trước hết, chính quyền VN không thể bỏ
rơi dân chúng của ḿnh cho “hải tặc nhà nước”
Trung Cộng bắt bớ, cướp bóc măi
được. Phải bảo vệ người dân,
chứng tỏ hải quân nước VN không sợ
chết mà chỉ sợ nhục. Khi bày tỏ thái
độ cứng rắn đó, phải kêu gọi các
nước khác hỗ trợ, đặc biệt là trong
vùng Đông Nam Á.
Trong
những ngày qua, trong pḥng họp quốc hội, không khí
đang nóng lên bởi những cuộc tranh luận,
phản biện xung quanh siêu dự án xây dựng
đường tàu cao tốc Bắc Nam với bài toán 56
tỷ USD.
Số tiền này chiếm
một nửa tổng thu nhập b́nh quân trong một
năm vào thời điểm hiện tại, mà Chính
phủ vừa đưa ra tŕnh Quốc hội xin chủ
trương, th́ trên hầu hết các trang báo từ báo chí của
nhà nước cho đến hải ngoại, các diễn
đàn độc lập, các trang blog cá nhân… dư luận
cũng sôi lên.
Có vẻ như sau vụ khai thác
bauxite ở Tây Nguyên, vụ cho thuê đất rừng
đầu nguồn ở một số tỉnh phía
Bắc, đây tiếp tục là một dự án thu hút nhiều
sự quan tâm của xă hội.
Phải thấy rằng dự
án xây dựng đường cao tốc Bắc Nam vẽ ra
một viễn cảnh rất hấp hẫn với h́nh
ảnh những con tàu hiện đại, sang trọng lao
vun vút trên đường ray, hành khách th́ buổi sáng
mới uống café ở Hà Nội, buổi trưa vừa
ăn trưa vừa ngắm cảnh băi biển Đà
Nẵng và buổi tối ngồi nhậu ở Sài G̣n. Ai mà
chẳng thích? Nhưng nói như nhà văn Ng. Quang Thân: “TGV là
một giấc mơ phải trả tiền, phải mang
nợ số tiền khổng lồ bằng một
nửa thu nhập quốc dân hàng năm…”
Hầu hết các ư kiến
phản biện đều đề cập trước
hết là ngân sách quá lớn dành cho dự án này. Theo tính toán
sơ bộ ban đầu, cần phải có khoảng 56
tỷ USD để thực hiện dự án. Nhưng trong
quá tŕnh xây dựng, nhiều chi phí phát sinh sẽ làm số
tiền đội lên rất nhiều.
Trong bài “Đường sắt
cao tốc sẽ tiêu tốn bao nhiêu tiền dân” đăng
trên trang Bauxite Vietnam, tác giả Hoài Nam viết: “Ngày 20-5-2010,
trả lời báo chí về khả năng đội
vốn đầu tư, Bộ trưởng Bộ Giao
thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng cho biết dự
pḥng đội vốn lên tới 13% là cao. Tức là theo
Bộ trưởng, trong trường hợp xấu
nhất, dự án sẽ tiêu tốn khoảng 63.114 triệu
USD…
Tuy nhiên, trong bài viết này tôi
muốn xem xét kỹ hơn một chút, liệu con số
chi phí có dừng ở 56 tỷ, hay thậm chí 63 tỷ USD
hay không?”
Không tin vào con số chênh lệch
dự pḥng 13% cho 10 năm (2010-2020) mà Bộ trưởng
Dũng đưa ra, sau khi làm những bài tính cụ
thể, tác giả đưa ra con số cuối cùng
thực sự phải bỏ ra để hoàn thành dự án
vào năm 2020 là 336 tỷ đô la!
Số tiền quá lớn, mà
lại là tiền đi vay của nước ngoài, là
điều khiến cho mọi người băn khoăn.
Tiến sĩ Trần Đ́nh Bá, Hội kinh tế vận
tải đường sắt Việt Nam, trong bài
“Đường sắt cao tốc-ư tưởng của
những người thích đùa” bày tỏ quan điểm
của ḿnh: “Lịch sử đường sắt
thế giới chưa hề có một quốc gia đang
phát triển nào dám đi vay tiền để làm ĐSCT và
chưa hề có một quốc gia nào giàu có dám cho vay một
lúc trên 5 tỷ USD cho một dự án…”
Và: “Ư tưởng làm 1.570 km
để vượt tuyến ĐSCT dài nhất thế
giới của Trung Quốc 1.000 km và các tuyến ĐSCT
ở Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Đức, Hàn Quốc…
đă bộc lộ sự hoang tưởng cả về
luận chứng kinh tế, kỹ thuật, các vấn
đề xă hội, quan hệ kinh tế đối
ngoại và tác động môi trường… Trong “lịch
sử vay mượn thế giới” chưa hề có
một nước nghèo đi vay tiền của một
nước giàu để làm một dự án to hơn, cao
hơn, lớn hơn điều họ từng làm.”
Nếu
ưu tiên cho dự án xây đường sắt cao tốc,
có nghĩa là ngân sách nhà nước, trong đó chủ
yếu là đi vay sẽ phải cắt bớt nhiều
khoản, trong khi có rất nhiều thứ cần thiết
hơn. Chỉ riêng trong ngành giao thông, nhiều ư kiến cho
rằng nên tập trung đầu tư tốt hơn cho
ngành đường sắt hiện tại, đỡ
tốn kém hơn nhiều mà lại phù hợp với hoàn
cảnh kinh tế hiện tại của Việt Nam.
Theo tác giả Tô Minh
Trường trong “Đường sắt cao tốc và kim
tự tháp của Việt Nam”: “Nếu đặt lại
cho đúng mục tiêu của dự án là giải quyết
cả vận tải hành khách và hàng hóa, v́ sự phát triển
bền vững của đất nước th́ phải
ưu tiên cho giải pháp nâng cấp tuyến
đường sắt hiện tại, đồng
thời với việc xây dựng tuyến
đường khổ 1,435m tốc độ giai
đoạn đầu là 200km/h. Sau này, khi có đầy
đủ điều kiện sẽ nghĩ đến
việc phát triển thành đường săt cao tốc
với tốc độ 300 km/h.”
Tiến sĩ Trần Đ́nh Bá
cũng có cùng quan điểm như vậy: “Mở rộng
đường sắt để tăng tốc 150-200 km/h
sẽ rút ngắn hành tŕnh Bắc Nam xuống 12-15 tiếng
là hoàn toàn nằm trong tầm tay chúng ta cả về
phương diện kỹ thuật cũng như khả năng
huy động vốn trong nhân dân. Dự án mở rộng
và điện khí hóa đường sắt cũng sẽ
dễ dàng vay vốn ODA cũng như mời gọi các
tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước thực
hiện dự án trong thời gian ngắn.”
Một nguyên nhân khác khiến
nhiều ư kiến không mặn mà lắm với dự án xây
đường sắt cao tốc trong thời điểm
hiện tại c̣n v́ hiệu quả kinh tế, kinh doanh
của dự án. Vay nợ lớn như vậy nhưng
khả năng hoàn vốn là bao nhiêu năm? Trên thực
tế, đường sắt cao tốc là một
phương tiện giao thông không phải là rẻ của
các nước giàu có, những nước thường có
tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập b́nh quân
đầu người trên 10.000 USD/năm. Trong khi đó th́
Việt Nam, trong khoảng 10-20 năm tới, thu nhập
b́nh quân đầu người đă chắc ǵ vươn
tới mức 3000 USD/năm. Như vậy chỉ tiêu sau 45
năm thu hồi vốn do những người đề
ra dự án đưa ra liệu có khả thi?
Một điều nữa
cũng cần phải t́m hiểu đó là v́ sao cho
đến nay mới chỉ có 11 nước trên thế
giới làm đường sắt cao tốc, trong khi có
nhiều nước có điều kiện tài chính
để làm hơn nước ta nhiều?
Những người phản
biện cũng băn khoăn v́ một dự án lớn
như vậy nhưng chưa có ǵ cụ thể cả.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trả lời phỏng
vấn báo Vietnam Net trong bài “Quốc hội không thể
quyết định tiêu hoang” cho biết: “Theo luật
định, các dự án lớn phải qua ba bước:
tiền khả thi, khả thi và dự án cuối cùng. Cái báo
cáo đầu tư này có thể hiểu nhập nhèm là báo
cáo tiền khả thi. Trong khi lẽ ra Quốc hội
phải phê duyệt dựa trên báo cáo khả thi chứ không
phải báo cáo đầu tư. Với báo cáo này, Quốc
hội không đủ thông tin để đưa ra
quyết định, cho dù là đồng t́nh hay phản
bác.”
Những người đề
xuất và ủng hộ dự án như Bộ
trưởng Giao thông Hồ Nghĩa Dũng, Bộ
trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh và Chủ nhiệm Ủy
ban Tài chính-Ngân sách Phùng Quốc Hiển th́ lập luận
lại có nhiều chỗ mâu thuẫn, như blogger Cây
Sậy đă vạch ra: “Tôi chưa từng nghe chuyện ǵ
“ghê răng” hơn Đường sắt cao tốc:
Quốc hội đồng ư, Bộ sẽ tính hiệu
quả.
Nghe 2 ông bộ trưởng nói,
tôi thấy câu nọ phủ định câu kia:
Ông Dũng bảo: “Đầu
tư cho GTVT hiện mới chiếm 7% tổng đầu
tư của toàn xă hội. Theo kinh nghiệm quốc
tế, con số này phải là 15. Nếu đưa dự
án này vào, th́ tổng đầu tư cho ngành giao thông
mới lên tới 15% và như vậy vẫn nằm trong
giới hạn cho phép, không ảnh hưởng đến
nền kinh tế”. Nhưng câu trước của chính ông
là: “Tất nhiên đây là một dự án cực kỳ
lớn, chiếm tới 50% GDP của đất
nước, trải dài cho đến năm 2025, mỗi
năm huy động hơn 4 tỷ USD. Mười năm
đầu khoảng hơn 2 tỷ USD/năm.”
Ông Ninh th́ bảo: “Vấn
đề là phải trả được nợ. Vay ít mà
không trả được th́ vẫn vỡ nợ như
thường.” Mà câu trước của ông là: “Đặt
lên bàn tính toán th́ hiệu quả kinh tế của dự án
này không phải là rất cao, nhưng về lâu dài và tính
cả hiệu quả xă hội là tốt.”
Vậy ông định lấy
hiệu qủa xă hội đem trả nợ sao???”
Nhiều vấn đề
chưa được tính toán đến trong dự án
cũng được các đại biểu nêu ra,
chẳng hạn như chưa lường hết nguy cơ
với môi trường như lo ngại của Tiến
sĩ Nguyễn Đ́nh Ḥe (Hội bảo vệ thiên nhiên và
môi trường Việt Nam) khi tṛ chuyện với báo
Vietnam Net: đó là sẽ phá gần 1400 ha đất
rừng, nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, kích
thích trượt lở đất, độ ồn,
độ rung… chưa kể công tŕnh sẽ khiến cho
hơn 16000 hộ gia đ́nh phải di dân, làm này sinh ra
nhiều vấn đề nhưng tất cả lại
chưa được tính toán ǵ, cũng chưa tính phí
bảo vệ môi trường liên quan v.v…
Tuy nhiên, nếu như trong
số các đại biểu quốc hội, cũng có
những ư kiến ủng hộ dự án th́ trên các diễn
đàn, các trang blog cũng vậy. Nhà báo Trương Duy
Nhất phê phán trong “Đường tàu cao tốc và tư
duy tám thước”: “Ngồi đợi đủ tiền
mới làm là lối tư duy nông dân, lười biếng.
Thế th́ giao thông Việt măi măi và muôn đời ngửi
khói thiên hạ. Chẳng lẽ cứ ngồi im chấp
nhận thực tế giao thông ́ ạch như hiện
tại. Chẳng lẽ cứ nuôi giữ măi những
đoàn tàu khọt khè ́ ạch hơn 30 tiếng
đồng hồ từ Hà Nội đến TP.HCM? Trong khi
cũng thời gian đó đủ để đi…ṿng
quanh trái đất”.
Để tăng thêm trọng
lượng cho lập luận của ḿnh, tác giả
đưa ra thành công của việc xây dựng tuyến
đường dây tải điện 500 KV xuyên Việt, mà
ban đầu khi ông Vơ Văn Kiệt đưa ra ư
tưởng, cũng bị dư luận la ó kiểu này,
c̣n chuyện trả nợ, có sao đâu? “Giàu như
người Nhật mà tuyến đường tàu cao tốc
từ Tokyo đến Osaka làm từ năm 1964, đến
măi năm 1990 họ mới trả xong nợ vay cho Ngân hàng
Thế giới.”
Sự hăng hái của
những người đưa ra dự án làm dư
luận cũng băn khoăn. Tác giả Tô Minh
Trường viết: “Người dân bắt buộc
phải đặt câu hỏi “Đằng sau hậu
trường vận động cho 2 siêu dự án này là
những nhóm lợi ích nào mà bất chấp cả lợi
ích toàn cục của nền kinh tế quốc gia”?
Nếu siêu dự án này kêu gọi cổ phần “lời
ăn, lỗ chịu” họ có dám mang tất cả của
cải, tài sản gia đ́nh riêng của ḿnh để
đánh bạc với số phận phiêu lưu của siêu
dự án này không?»
Mọi chuyện dường
như đă theo một hướng khác khi trang blog của
nhà báo Phạm Viết Đào đăng bài viết trên Daily
Telegraph về việc: “Trung Quốc lập dự án xây
dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc
Kinh-Luân Đôn”, nối châu Á và châu Âu. “Để thực
hiện dự án này Trung Quốc đang đặt kế
hoạch thương lượng với một loạt
quốc gia nằm trên tuyến đường này. Nếu
dự án này thành công th́ quả là một công tŕnh vĩ
đại của thế kỷ XXI.” Bài báo cũng cho
biết: trong tuyến đường sắt thứ hai
từ Bắc Kinh qua Nga đến Đức sẽ
nối với các quốc gia châu Á như: Việt Nam, Thái
Lan, Burma và Malaixia…
Như vậy là đă rơ. Nhân sự
việc này, nhà báo Phạm Viết Đào đặt câu
hỏi: “Quốc hội Việt Nam có “cầm đèn
chạy trước tàu cao tốc” Trung Quốc?”
Tác
giả Nguyễn Đ́nh Đông trong bài “Cao tốc cho ai?”
chua chát: “À, thế ra cái quyền lợi của
người đi tàu Việt Nam h́nh như là thứ
yếu trong cái Đại đại dự án “triệu
tỷ” kia rồi. Cái nguyên do chính của cuộc tiêu pha
thế kỷ kia có lẽ là để cho anh Nhớn thông
thương thôi.”
Bài báo
cũng trích lời ông Wang Mengshu, một thành viện
của Học viện kỹ thuật Trung Quốc và là
Tư vấn cấp cao của Dự án đường
sắt cao tốc trong nước của Trung Quốc cho
biết: “Chúng tôi sẽ sử dụng tiền của Chính
phủ (Trung Quốc) và các khoản vay ngân hàng, nhưng các
tuyến đường sắt cũng có thể kêu
gọi tài chính từ khu vực tư nhân và từ các nước
chủ nhà. Chúng tôi thực sự thích các nước chi
trả bằng tài nguyên hơn là tự họ đầu
tư”. Trang Bauxite Vietnam b́nh:
“Cũng
như chuyện bauxite năm ngoái, chắc đă phải có
cái gật đầu đổi tài nguyên lấy tiền
ở cấp thượng đỉnh rồi th́ ông Bộ
trưởng Bộ GTVT mới nài nỉ QH dữ thế,
và không phải là nài nỉ mà c̣n mạnh miệng đ̣i
hỏi nữa.”
Chưa
kể rồi cũng như phần lớn các dự án khác
ở Việt Nam, các công ty Trung Quốc sẽ lại trúng
thầu v́ giá rẻ và biết chi đậm, sẽ “cung
cấp, xây lắp trọn bộ từ đường
ray, con tàu cho đến cái bóng đèn toilet trong từng nhà
ga” như tác giả Nguyễn Đ́nh Đông đă cảnh
báo trong bài trên.
Trong khi đó th́ người dân,
là những người mà bản thân họ, con cháu mấy
đời của họ phải è cổ ra để
trả nợ th́ có thể làm được ǵ? Có lẽ
họ chỉ có thể cầu xin trời đất
tổ tiên, các vị anh hùng liệt sĩ, các nghĩa sĩ
“phù hộ độ tŕ cho các vị Đại biểu
Quốc hội đủ sáng suốt, anh minh và ḷng dũng
cảm để bỏ phiếu không với Hai dự án
"Đường sắt cao tốc Bắc-Nam "và
"Chuyển trung tâm hành chính sang tận Ba V́", v́ con
sợ vay chất nợ chồng và núi thiêng bị mất
thiêng ạ.” như blogger Diệu Sinh dí dỏm viết trong
bài “Lời nguyện cầu của một bà già”.
Nhà báo Nguyễn Văn Phú th́
kể: “Sáng nay cả hai báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ
đều có tin và ảnh về chuyện người dân,
kể cả trẻ em, phải đu dây để băng
qua sông Pô Kô (Ngọc Hồi, Kon Tum) v́ toàn bộ hệ
thống cầu treo đều đă bị lũ cuốn
trôi.
V́ sao có thảm cảnh này? Báo
Thanh Niên trích lời Phó bí thư thường trực
huyện ủy Ngọc Hồi Châu Ngọc Lân cho biết:
“Việc đi lại của bà con nhân dân như vậy là
quá nguy hiểm và đe dọa đến tính mạng.
Để làm mới các cầu treo cần phải có thời
gian, trong khi đó điều kiện của huyện
cũng có hạn”.
Trong khi đó, bàn về việc
vay tiền làm đường sắc cao tốc Bắc-Nam
(tốn chừng trên 55 tỷ USD), Bộ trưởng
Bộ Thông tin-Truyền Thông Lê Doăn Hợp cho biết:
“Nếu ta làm đường th́ họ mới ưu ái cho
vay v́ t́nh nghĩa với Việt Nam chứ nếu ta
muốn đầu tư nông thôn, vùng sâu vùng xa th́ làm sao vay
được?" (Vietnamnet). Nhà báo Nguyễn Văn Phú
buông một câu: “À ra thế!”
Trong khi nhiều nơi trên
đất nước này một cái cầu treo c̣n chưa
đủ điều kiện làm, đành mặc cho
người dân đánh đu với tính mạng th́ trong
cuộc họp của Quốc hội, người ta
đang tính đến chuyện vay nợ cho những
dự án hàng chục thậm chí hàng trăm tỷ đô la
để lợi cho ai là chính?
Rồi có lẽ cũng như
những sự việc khác trên đất nước này,
mọi lời phản biện, thậm chí khẩn cầu
của nhân dân cũng sẽ không đến tai
được những kẻ có chức quyền mà
một quyết định của họ là hàng chục
năm kéo cày trả nợ của nhân dân!
Tại phiên
họp thứ 30 vào chiều ngày 17-4-2010, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 12 đă cho ư
kiến về chủ trương đầu tư Dự
án đường sắt cao tốc Bắc-Nam.
Được biết đây là một dự án xây
dựng khổng lồ với lượng vốn vay dự
kiến vào khoảng xấp xỉ 56 tỷ USD, tương
đương với 2/3 GDP của Việt Nam (GDP hiện
nay đang ở mức khoảng 90 tỷ USD).
Theo các chuyên
gia kinh tế đây là một dự án không có hiệu
quả kinh tế, đặc biệt trong trường
hợp nếu toàn bộ nguồn vốn đầu tư
xây dựng phải đi vay. Như ông Nguyễn Đăng
Doanh một chuyên gia kinh tế cao cấp, nguyên là
cố vấn cho thủ tướng cho rằng: “Về dự án xây dựng
đường sắt cao tốc Bắc-Nam, Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ, ông Đặng
Vũ Minh đă có báo cáo thẩm định và nói rằng,
cần phải xem xét hết sức thận trọng
dự án này v́ nó làm tăng thêm nợ quốc gia. Về
mặt kinh tế th́ đây là một dự án rất
tốn kém v́ báo cáo của dự án chưa tính hết
những chi phí như: chi phí đào tạo, chi phí
đền bù cho người dân, chi phí về môi
trường và các chi phí khác, mà con số đă lên
đến 55,8 tỉ. Có nhiều tính toán cho thấy
rằng nếu tính đủ các chi phí phát sinh, và những
diễn biến trong thời gian tới th́ chi phí thực có
thể lên đến 100 tỉ đôla. Và như vậy
tức là nó bằng GDP của cả nước Việt
Nam năm 2010. Đây là một điều đáng lo
ngại.”
Theo b́nh
luận của tờ Earthtime ngày 21-5-2010 dưới
tựa đề "Viet nam's high-speed railway to come with hefty
price tag" [1] cho biết "Nhiều
đại biểu Quốc hội lấy làm hoài nghi về
dự án này. Trong buổi họp hôm thứ Năm, chủ
tịch Ủy ban Môi trường và Kỹ thuật của
Quốc hội ông Danh Vũ Minh nhấn mạnh rằng
tổng số nợ của Việt Nam hiện này là
hơn 42 phần trăm tổng sản lượng
nội địa (DGP), nợ nần hơn nữa là
một sự nguy hiểm, liều lĩnh.
Cựu
thống đốc Ngân hàng Nhà nước ông Cao Sĩ Kiêm
nói rằng nhà nước đă không nói rơ những ích
lợi của dự án giao thông này hay giải thích nhà
nước sẽ làm như thế nào để thu hút cho
đủ vốn 56 tỉ đô-la trước khi xây.
Một
đại biểu khác, cựu Bộ trưởng Giao thông
ông Đào Đ́nh B́nh, cho rằng nhà nước cần
ưu tiên phát triển xa lộ v́ hiện không có nhu cầu
đ̣i hỏi xe điện cao tốc".
Đặc
biệt Earthtime c̣n cho biết "Nói
với các phóng viên ở hành lang Quốc hội hôm thứ
năm, ông Bộ trưởng Bộ Giao thông vận
tải Hồ Nghĩa Dũng thừa nhận dự án này
tốn kém bằng hơn nửa tổng sản
lượng nội địa (GDP) của Việt Nam
hiện nay là 90 tỉ đô-la, về phương diện kinh tế
là không có hiệu quả. (Ông này nói sai rồi, phải 2/3 thì đúng hơn, 56/90.100=62%
DTK)
Nhưng ông
bảo vệ lư do cần xây dựng hệ thống cao
tốc này khi ông lư luận rằng cái “ấn tượng
xă hội sâu sắc” và khả năng gia tăng sự trao
đổi giữa hai miền Nam Bắc của đất
nước là nguyên nhân chính để xây dựng hệ
thống cao tốc này".
Trước
hết phải xác định dự án Dự án
đường sắt cao tốc Bắc -Nam là một
dự án kinh doanh với số vốn đầu tư
rất lớn do ngành giao thông vận tải đề
xuất với mục đích giải quyết nhu cầu
vận chuyển hành khách đi lại giữa Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh (lưu ư loại h́nh tàu cao tốc
không có khả năng đáp ứng vận tải hàng hóa).
Đă là một phương án kinh doanh th́ trước tiên
phải tính đến hiệu quả kinh tế của
dự án là vấn đề hàng đầu, các mục tiêu
chính trị, quốc pḥng chỉ là một yếu tố
cần xem xét nhưng không phải là yếu tố quyết
định và quan trọng nhất.
Được
biết kết luận phiên họp lần thứ 30, Phó
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên
đă đề nghị Chính phủ cần phân tích kỹ
ưu, nhược điểm các phương án
đầu tư của dự án để áp dụng và
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đă
nhất trí dự án này phù hợp với lộ tŕnh
phấn đấu thực hiện mục tiêu đến
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp nên sẽ tŕnh Quốc hội tại kỳ
họp thứ 7 để xem xét, quyết định.
Căn
cứ vào ư kiến của Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải cho rằng dự án này có “ấn
tượng xă hội sâu sắc” và UB Thường vụ
Quốc hội thấy "dự án này phù hợp với
lộ tŕnh phấn đấu thực hiện mục tiêu
đến 2020 Việt Nam cơ bản trở thành
nước công nghiệp" th́ phần nào chúng ta cũng
đoán được tương lai của dự án này
sẽ được Quốc hội phê chuẩn trong
một thời gian không xa v́ nó cũng có hơi hướng
của dự án bauxite Tây Nguyên. Bởi chính phủ Việt
Nam đă cam kết với Nhật Bản về việc
xây dựng tuyến đường tàu cao tốc Bắc
Nam dùng công nghệ Shinkansen của nước này, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng
Vơ Hồng Phúc đă thông báo cho phía Nhật về quyết
định này trong tháng 12-2009 và tháng 4-2010. Bản tin
của AFP cho biết Tổng công ty Đường sắt
Việt Nam đă cử chuyên gia sang Nhật học
hỏi công nghệ từ năm ngoái cho thấy quyết
tâm của VN với dự án này. [2]
Như
vậy đă rơ, mọi việc đă cơ bản
được quyết định, việc đưa ra
bàn thảo tại Quốc hội chỉ là việc mang tính
h́nh thức cho có vẻ dân chủ. Về thực
chất Chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng
đâu cần nghe Quốc hội. Người quyết
định vấn đề này là tập thể Bộ
chính trị, mà Thủ tướng là một thành viên. Đó
chính là lư do ông Nguyễn Tấn Dũng toàn làm cái chuyện
"tiền trảm hậu tấu" để đẩy vấn
đề vào việc đă rồi và cuối cùng là chốt
lại bằng câu "Đây là chủ trương
lớn của đảng" là hết chuyện.
Lư do và
động cơ nào mà Chính phủ của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đă vội vă cam
kết với Nhật Bản về việc xây dựng
tuyến đường tàu cao tốc Hà nội - TP Hồ
Chí Minh, đă thông báo cho phía Nhật về quyết
định này trong tháng 12-2009 và tháng 4-2010 và cho phép Tổng
công ty Đường sắt Việt Nam đă cử chuyên
gia sang Nhật học hỏi công nghệ trong khi Dự án
này mới đang ở giai đoạn tŕnh Quốc hội
xem xét? Câu trả lời là v́ món percent (phần trăm)
khổng lồ của dự án giá trị 56 tỷ USD này
sẽ được trả cho chủ đầu tư
không dưới 10% tổng giá trị, khoản hoa
hồng này các quan chức VN sẽ được nhận
cả khi đi vay vốn và khi chọn nhà thầu.
Sở
dĩ Việt Nam buộc phải chọn công nghệ
Shinkansen của Nhật dù chưa chắc đă tối
ưu (chỉ chở được hành khách chứ không
vận tải hàng hóa được) v́ chỉ có Nhật
mới đồng ư cho VN vay vốn thông qua ODA song
phương hoặc cofinance với WB/ADB [2]. Vay vốn
của Nhật Bản đồng nghĩa với việc
bắt buộc sử dụng các thiết bị và kỹ
thuật của Nhật Bản cung cấp, khi Nhật
Bản cho vay vốn nghĩa là nước họ bán
được một món hàng có giá trị nhiều tỷ
USD và các công ty của họ sẽ kiếm được
các hợp đồng thi công béo bở. Nhưng nếu không
là Nhật Bản mà là một nước khác cho vay cũng
không dễ nếu không có percent lót tay cho phía Việt Nam. Với
Nhật Bản chuyện phong b́ percent đă trở thành quen
thuộc có thể "nói ít hiểu nhiều"
như trường hợp vụ Bùi Tiến Dũng PMU
18 và đồng bọn, vụ Huỳnh Ngọc Sĩ
giám đốc BQL dự án Đại lộ Đông - Tây
TP HCM và CPI là một ví dụ.
56 tỷ USD
đi vay về làm đường sắt cao tốc
Bắc Nam, hiệu quả hay không hiệu quả th́ đă
tương đối rơ ràng, nhưng họ vẫn
nhắm mắt đi vay để làm bằng
được theo kiểu anh nghèo thích chơi sang, thích
chơi ngông, bất kể hiệu quả và tính kinh tế
của vốn đầu tư. Lịch sử thế
giới chưa hề có một quốc gia đang phát
triển nào đi vay tiền để làm đường
sắt cao tốc và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) không cho phép sử dụng
vốn vay ưu đăi ODA để làm ĐSCT v́ đây là
phương tiện đại xa xỉ và hiệu quả
thu hồi vốn thấp.
Thế
nhưng Đảng và chính quyền Việt Nam ngoài mặt
tỏ ra hy vọng với dự án này có ư nghĩa chính
trị lớn, giúp đánh bóng thành tựu phát triển
triển kinh tế vốn chậm chạp của Việt
Nam, nhưng sự thúc đẩy quan trọng nhất
đằng sau dự án khổng lồ này đó là cái "phong
b́" với món percent cũng khổng lồ không kém,
không ít hơn 5 tỷ USD mới là nguyên nhân khiến họ
phải làm bằng được bằng mọi giá.
Món nợ
khoản vay 56 tỷ USD th́ cả 87 triệu người
Việt Nam è cổ ra gánh và làm để trả nợ
bằng tiền thuế của mỗi cá nhân trong nhiều
chục năm. Việc đầu tư cho
đường sắt cao tốc Bắc Nam hiệu
quả hay không hiệu quả là việc của trời
không cần quan tâm, quan trọng đối với họ
đó là cái phong b́ percent theo luật bất thành văn
đang chờ ở phía trước.
Đó cũng chính là lư do v́ sao mấy
năm gần đây chính quyền Việt Nam rất
chịu khó và tích cực đi vay tiền của các
quốc gia, các tổ chức tài chính thế giới về
chi tiêu lung tung không hiệu quả. Phần nào cũng v́ những
kẻ lănh đạo đảng và nhà nước Việt
Nam hiểu rằng đây là giai đoạn họ đang
"đá câu giờ", gần tới lúc có sự thay
đổi mà khi đó không cho phép họ vơ vét như
nhiều năm qua cần phải tranh thủ làm ngay và
Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam là
một miếng to mà họ xác định cần phải
"xơi" gấp.
http://www.x-cafevn.org/node/389
Chú thích
[1]:Earthtimes.org.
[2]:Dân Luận
Phương án
đường sắt cao tốc của nhà cầm
quyền CSVN (phương án 4)
Nâng
cấp tuyến đường sắt hiện tại
để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá
và hành khách địa phương đồng thời xây
dựng mới tuyến đường sắt với
tốc độ 300 km/g chuyên chở hành khách.
Theo
tính toán, tổng chiều dài toàn tuyến đường
sắt cao tốc là 1.570 km, bắt đầu từ Hà
Nội đến ga cuối là Ḥa Hưng (Sài G̣n), trong
đó cầu cạn dài 1.043 km, cầu vượt sông và
đường bộ dài 46 km, hầm dài 117 km, c̣n lại
là nền đường đào đắp dài 364 km,
chiếm 23%. Có tất cả 27 ga. Dự kiến thời
gian chạy tàu từ Hà Nội - Hoà Hưng là 5 giờ 38
phút đối với tàu nhanh (chỉ đỗ các ga Vinh,
Đà Nẵng, Nha Trang) và 6 giờ 51 phút với tàu
thường đỗ ở tất cả các ga.
Dự án chia làm hai giai đoạn, giai
đoạn một đến 2020 đưa vào khai thác
đoạn từ Hà Nội - Vinh và đoạn Nha Trang - Sài
G̣n và giai đoạn đến 2030 xây dựng đưa
vào khai thác đoạn Vinh - Đà Nẵng và hoàn thành toàn
tuyến vào 2035. Tổng diện tích đất thu hồi
để làm dự án khoảng 4.170 ha và 9.480 hộ cần
tái định cư.
Không cần biết có cần thiết hay không,
nhà cầm quyền Hà Nội vẫn cho tiến hành việc
xây dựng một hệ thống đường xe
lửa cao tốc do Nhật Bản thiết kế.
Cái ư tưởng về một con tàu siêu tốc
sẽ giảm thiểu thời gian du hành giữa Hà Nội
và Tp HCM từ 30 tiếng xuống c̣n 6 tiếng đă gây
phấn khởi cho Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng và thuộc cấp của ông ta, Bộ trưởng
Giao thông Hồ Nghĩa Dũng, để thông qua một
giao kèo với phía Nhật Bản mặc dù việc tranh căi
sôi nổi vẫn đang diễn ra tại Quốc hội.
Chính phủ Việt Nam hồi tháng 8 năm ngoái
trên căn bản đă chấp thuận cho Tổng công ty
Đường sắt Việt Nam được phép dùng
kỹ thuật do công ty nổi tiếng Shinkansen cung cấp
để xây dựng một hệ thống
đường rầy xe lửa trị giá 56 tỷ Mỹ
kim, dài 1560 cây số chạy suốt cả dải
đất h́nh chữ S.
Cuộc tranh căi về tàu cao tốc đă chi
phối chương tŕnh nghị sự tại Quốc
hội trong tháng 5 năm nay, nhưng không có chút tiến
triển nào. Mặc dù gặp phải sự chống
đối mạnh mẽ, cả dư luận quần chúng
lẫn trong Quốc hội đều giật nảy ḿnh
v́ tin tức đưa ra từ Nhật Bản cho biết
rằng một khế ước đă được hoàn
tất giữa chính phủ của ông Dũng và công ty
Shinkansen, và dưới khế ước này th́ công ty
Nhật sẽ bán kỹ thuật và xây tàu cao tốc cho
Việt Nam, khiến cho việc tranh căi tại Quốc
hội trở thành vô nghĩa trước một sự
kiện không thể nào đảo ngược
được.
Nhiều nhà quan sát t́nh h́nh Viêt Nam hiện nay cho
rằng cái dự án tàu cao tốc rồi cũng sẽ
gặp phải số phận như một đạo
luật hồi năm ngoái về việc cho phép xây dựng
một mỏ khai thác quặng bô-xít khổng lồ - và
tiềm năng gây ô nhiễm - ở Tây Nguyên, mặc dù
gặp phải sự phản đối lan tràn trong
quần chúng, thậm chí có cả một lá thư ngỏ
của tướng Vơ Nguyên Giáp kêu gọi hăy chịu khó
chờ cho đến khi dự án được nghiên
cứu kỹ lưỡng. Ngoại trừ một số
rất ít, c̣n tất cả các đại biểu Quốc
hội đă bị thúc ép phải bỏ phiếu chấp
thuận dự án khai thác bô-xít v́ "đảng đă ra
chỉ thị". Căn cứ theo sự kiện này th́
việc xây dựng một hệ thống tàu cao tốc coi
như là sẽ được cho tiến hành, bất
kể điều ǵ sẽ xảy ra.
Nhưng khó khăn rơ rệt trước mắt
là một dự án như thế sẽ siết chặt
một nền kinh tế vừa mới vừa thoát ra
khỏi cảnh nghèo đói, với lợi tức hàng
năm cho mỗi đầu người ở khoảng 800
Mỹ kim. Các nhà phê b́nh đă tính toán ra một khối
nợ ngoại quốc khổng lồ mà các thế hệ
Việt Nam trong tương lai sẽ phải gánh lấy
nếu dự án tàu cao tốc trên được tiến
hành.
Theo các nhà phân tích cho biết th́ 56 tỷ Mỹ
kim tương đương với hơn phân nửa
tổng sản lượng nội địa (GDP) của
Việt Nam, được tiên đoán là vào khoảng 97
tỷ Mỹ kim trong năm 2010, và tổng cộng kinh phí
cho dự án có thể sẽ vượt qua mức 100
tỷ đô la khi nó được hoàn thành, đồng
thời đưa ra nhiều thắc mắc là số
tiền trên có nên được dùng để phát triển
xây dựng các cơ sở hạ tầng ít tốn kém và
cần thiết hơn như đường xá và
đường rầy xe lửa thông thường,
để thay thế cho hệ thống hiện thời,
đă quá cũ kỹ v́ được xây dựng trong
thời kỳ Việt Nam c̣n là thuộc địa của
Pháp.
Giới
chức Nhật Bản, rơ ràng là đang nôn nóng để
phát mại một dự án xa xỉ như vậy, nói
rằng so với Nhật Bản th́ tổng số nợ
quốc gia của Việt Nam c̣n kém xa và do đó có
đủ khả năng để trang trải cho dự
án. Nhưng tính theo GDP th́ Nhật Bản là quốc gia mang
nợ nần nặng nề nhất, đứng hàng
thứ 2 trên thế giới chỉ sau Zimbabwe, là nước
đang bị lâm vào t́nh trạng vô vọng sau hàng năm
trời quản lư kinh tế kém cỏi. Riêng Việt Nam,
với dân số gần 90 triệu người, phải
trải qua gần 30 năm để hồi phục
từ một cuộc chiến tàn khốc lại bị làm
trầm trọng thêm v́ mất đi sự yểm trợ
tài chánh do việc sụp đổ của Liên bang Sô
Viết và sự đùa bỡn tai hại với nền
kinh tế tập trung. Lực lượng lao động
tăng hơn 1 triệu nhân công mới mỗi năm dù
mức tăng trưởng thường niên của
nền kinh tế thiên về xuất cảng trong thập
niên qua chỉ gia tăng trung b́nh 7 phần trăm - cho đến khi có cuộc khủng
hoảng tài chánh toàn cầu xảy ra th́ xuất cảng
bị giảm xuống gần 10 phần trăm mỗi
năm. Trong khi đầu tư trong nước đang
ở mức khả quan 16 phần trăm th́ đầu
tư trực tiếp nước ngoài bị giảm
xuống mất 70 phần trăm trong năm 2009.
Trong hoàn cảnh này th́ việc xây dựng hệ
thống tàu cao tốc, theo như một nhà khoa học
Việt Nam đă nói, "là một sự phung phí vô lư".
Ngoài ra cũng c̣n nhiều câu hỏi về
tiện ích của việc xây dựng tàu cao tốc. Hệ
thống Shinkansen được thiết kế chỉ
để vận chuyển hành khách, chứ không phải
hàng hóa, và lợi ích kinh tế của một hệ
thống tàu cao tốc không được rơ ràng lắm v́
cần phải có sự tài trợ lâu dài của nhà
nước để xây dựng và vận hành khai thác
hệ thống này. Không một quốc gia nào trong 12
quốc gia đă phát triển có hệ thống tàu cao
tốc đi mượn tiền ngoại quốc
để xây dựng các hệ thống đó.
Đại sứ Nhật tại Việt Nam, ông
Mitsuo Sakaba đang khuyến cáo Việt Nam nên thận
trọng, trong ngày 31-5 đă nói rằng "Việt Nam
cần xem xét kỹ càng dự án dùng kỹ thuật Shinkansen
và lợi ích do dự án này mang lại". Trong một
cuộc phỏng vấn với báo Lao Động, ông Sikaba
đă đưa ra một nghiên cứu của Cơ quan
Hợp tác Quốc tế Nhật Bản dự kiến
rằng cho đến năm 2020 th́ việc xử dụng
hệ thống này sẽ c̣n rất ít và đề nghị
chính phủ Nhật nên chờ đợi cho vấn
đề này được đưa ra thảo luận
trong Quốc hội trước khi quyết định
rằng họ có nên hợp tác hay không và hợp tác như
thế nào.
Để trả đũa lại các ư kiến
chống đối dự án vịn vào sự tốn kém,
Bộ trưởng tài chánh Nguyễn Sinh Hùng vừa thông báo
một “chiến lược mới đối với các
khoản nợ nước ngoài". Ông Hùng nói rằng nh́n
về hai thập niên tới, khi nền kinh tế Việt
Nam tăng trưởng đến một mức tiến
bộ hơn, th́ sẽ có thêm viện trợ và đầu
tư phát triển từ nước ngoài đổ vào,
khiến cho khả năng vay mượn to lớn hơn
có thể làm được.
Các thành
phần chỉ trích dự án tàu cao tốc bao gồm
nhiều cựu bộ trưởng, các cựu chiến
binh, các nhà khoa học hàng đầu, giới trí thức
Việt Nam hải ngoại và một số lớn các
bloggers. Việc áp bức quyền tự do ngôn luận và
hạn chế hội họp cùng kiểm duyệt báo chí
gắt gao đă đẩy hầu hết thành phần
chỉ trích dự án phải dùng biệt danh để lên
tiếng phản đối trên mạng internet.
Đối phó với bộ máy tuyên truyền
chặt chẽ của nhà nước, phía chống
đối không tạo ra được ảnh
hưởng đáng kể nào. Nhưng tại sao lại
đột ngột có sự ầm ĩ như vậy?
Tại sao nhà nước cứ cho tiến hành việc phung
phí như thế? Những đồn đăi trong giới
báo chí ở Hà Nội cho rằng có 2 điều đang
xảy ra. Một là có liên quan đến vấn đề
tranh chấp nội bộ trong Đảng Cộng sản.
Bằng cách ủng hộ cho hệ thống tàu cao tốc,
các đối thủ của ông Dũng trong Bộ chính
trị được biết là đang giăng ra một
cái bẫy để hướng sự chỉ trích ngày càng
gia tăng của quần chúng về phía cá nhân ông ta. Theo
giả thuyết này th́ kẻ thù của ông Dũng muốn
loại bỏ ông ta ra ngoài trong dịp Đại hội
đảng kỳ tới, được tổ chức
vào đầu năm 2011.
C̣n cái giả thuyết kia th́ cho rằng cuộc
tranh căi về tàu cao tốc được giới lănh
đạo dùng để đánh lạc hướng
quần chúng khỏi các đề tài nhậy cảm hơn
như sự căng thẳng đang sôi sục với Trung
Quốc trên Biển Đông về chủ quyền Quần
đảo Trường Sa, và vấn đề chạy
đua vũ trang đang xảy ra tại Đông Nam Á.
Sự ổn định trong quần chúng thường là
điều kiện tiên quyết trước mỗi kỳ
Đại hội đảng. Các bằng chứng cho
cả hai lời giải thích trên hầu hết chỉ mang
tính chất giai thoại.
Trong nhiều năm gần đây, chính phủ
và giới lănh đạo các tập đoàn tại Việt
Nam thường bị ám ảnh với cái ư tưởng
muốn lưu lại một ấn tượng để
đời nào đó khi họ c̣n tại chức, chẳng
hạn như việc tạo ra "những vật to
lớn nhất". Thành quả được ghi vào
kỷ lục Việt Nam mới đây gồm có cái bánh
chưng và chai rượu to nhất, để dâng cúng cho
Vua Hùng, và một ly cà phê khổng lồ. Các nhà chỉ trích
nói rằng, việc xây dựng hệ thống tàu cao
tốc, tốt nhất là nên được xem như
một mưu toan mới phản ánh cái tâm lư hay ham muốn
tạo ra kỷ lục.
Khánh
Đăng phỏng dịch
Dự án đường
sắt cao tốc (ĐSCT) Bắc-Nam, một
dự án đang gây khá nhiều tranh căi, và tốn biết
bao nhiêu giấy mực trong nước cũng như ngoài
nước.
Trong những năm gần
đây, người dân trong nước thật chán ngán
với những bản tin được liên tục phát
đi của Công ty Đường sắt Việt Nam trên
các phương tiện truyền thông như nào là: “Đă
khởi động 4 tuyến ĐSCT 30 tỷ USD”, “Đă
khởi động dự án ĐSCT TP HCM - Nha Trang với
6,5 tỷ USD viện trợ không hoàn lại của Chính
phủ Hàn Quốc”,... và gần đây nhất là dự
án ĐSCT Bắc-Nam với kinh phí 56
tỷ USD. Những thông tin này ngày càng nhiễu loạn,
những dự án “siêu quốc tế” này đang ngày càng
trở thành xa vời trước thực trạng quá
tải và tai nạn giao thông ở trong nước ngày càng
nghiêm trọng.
Tưởng cũng cần
nhắc lại, đây là một dự án khổng lồ với
vốn vay lên tới 55,85 tỷ USD, tương đương với 2/3 tổng sản lượng nội
địa GDP (Gross Domestic Product) của VN hiện
đang ở mức khoảng 90 tỷ USD và bằng 250% ngân sách
năm 2009 của cả nước. ĐSCT Bắc-Nam ước tính dài 1,570 km, phát xuất từ ga Ngọc Hồi
Hà Nội và kết thúc tại ga Ḥa Hưng Sài G̣n. Hành tŕnh tàu cao tốc với tốc
độ 300km/h, chạy từ Hà Nội đến Sài G̣n
sẽ chỉ mất hơn 5 giờ 38 phút với tàu nhanh
chỉ ngừng ở các các ga Vinh, Đà Nẵng, Nha Trang và
6 giờ 51 phút với tàu thường ngừng ở
tất cả các ga. Sáng ăn chả cá Lă Vọng ở Hà
Nội, trưa nhâm nhi đồ biển và ngắm cảnh
ở Đà Nẵng, rồi tối đă có mặt ở
Sài G̣n để thưởng thức những món
đặc sản miền Nam. Chuyện xa vời bây
giờ nghe sao nghe sao dễ dàng quá! “Huế,
Sài G̣n, Hà Nội, quê hương ơi sao vẫn c̣n xa”
của Trịnh Công Sơn đă qua rồi. Huế, Sài G̣n,
Hà Nội, bây giờ chỉ c̣n trong gang tấc!
Theo các
chuyên gia kinh tế th́ đây là một dự án không có
hiệu quả kinh tế, đặc biệt là nguồn
vốn đầu tư xây dựng lại phải đi
vay toàn bộ như vậy. Câu hỏi đầu tiên là
tiền đâu cho dự án khổng lồ này? Thường th́
CSVN bám víu vào quỹ ODA (Official
development assis tance). ODA là vốn vay
ưu đăi lăi suất thấp mà các nước giàu cho các nước
nghèo vay để sử
dụng vào các công tŕnh phúc lợi xă hội. Quỹ tiền tệ
quốc tế IMF (International Mone tary Fund) và ngân hàng thế
giới WB (World Bank) không cho phép sử dụng vốn vay
ưu đăi ODA vào việc thực hiện ĐSCT v́ đó
là thứ phương tiện giao thông đại xa xỉ
mà các nước phát triển c̣n chưa dám nghĩ tới,
huống hồ là VN, một nước mà năm nào cũng
bị liệt vào danh sách 10 nước nghèo nhất thế
giới. Tổng số nợ của VN hiện nay đă
quá 42% GDP và dự án sẽ làm nợ nần tăng thêm
nhiều hơn nữa.
Lịch
sử thế giới chưa hề có một quốc gia
đang phát triển nào dám đi vay tiền để làm
ĐSCT. Tính đến nay mới chỉ có 11 nước có
ĐSCT. Sở hữu nó đều là các đại
cường quốc về kinh tế lắm của dư
tiền như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Ư, Đức, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và gần
đây là Hong Kong. Họ bỏ tiền xây dựng ĐSCT
để gây ấn tượng nhằm giành vị thế
trên trường quốc tế hơn là đặt
nặng giá trị sử dụng. Giàu như nước
Mỹ cũng mới chỉ có 400km mà thôi. Riêng Pháp và
Nhật Bản có ĐSCT dài trên 1,500 km. Trong khi đó
một nước c̣n nghèo nàn lạc hậu như VN mà tham
vọng có ĐSCT dài hơn 1,500 km để qua mặt 1,000
km của đàn anh Trung Quốc và các cường quốc
trên thế giới đă bộc lộ cả một
sự hoang tưởng về kinh tế, xă hội, kỹ
thuật, môi trường, và quan hệ đối
ngoại.
Đến
dư luận trong nước cũng đă phải lên
tiếng. Báo Công an Nhân dân cho rằng đó là “Một
dự án chưa thực tế”. VnExpress th́ nửa
đùa nửa thật nói đó là “Ư tưởng của
những người thích đùa”, “Dự án xa xỉ”
và là một “Sự lăng mạn vĩ đại”.
VnEconomy th́ la làng là “Quá lăng mạn!”. Vietnamnet cho là “Ảo
tưởng” và Tuanvietnam thẳng thắn nói “Chơi
ngông”!
Nói về
kỹ thuật th́ tốc độ 300 km/h trên mặt
đất rất nguy hiểm nên ĐSCT chỉ phù hợp
với những nước khí hậu ôn đới có
nhiệt độ, lưu lượng mưa và tốc
độ gió vừa phải. Chưa ai dám làm ĐSCT ở
những vùng khí hậu nhiệt đới có gió mùa với
những trận mưa xối xả và tốc độ
gió cao dễ gây lật tàu. Việt Nam hiện có tổng cọng
trên 3,000 km hầu hết là đường sắt khổ
hẹp 1m đă xảy ra nhiều vụ lật tàu gây
thiệt hại nặng nề cho ngành đường
sắt và đe dọa tính mạng người dân. Tai
nạn giao thông hiện nay hàng năm làm trên 13,000
người thiệt mạng và số người bị
thương th́ vô kể làm thiệt hại về kinh
tế mỗi năm gần cả tỷ Mỹ kim. Đó
là chưa nói đến vấn đề kém ư thức
bảo vệ của công và an toàn giao thông của
người Việt ḿnh. T́nh trạng ném đá lên tàu và
đặt chướng ngại vật trên
đường ray vẫn xảy ra sẽ gây thảm
họa cho tàu cao tốc bởi tốc độ tàu quá nhanh
và lượng khách quá lớn.
Các
nước có ĐSCT thường chỉ thực hiện
ĐSCT sau khi hiện đại xong toàn bộ hệ
thống đường sắt khổ 1.435m tiêu chuẩn
quốc tế. Trung Quốc cũng vậy, họ mở
rộng 74,000 km đường sắt khổ 1m sang 1.435m
trước khi làm ĐSCT. Nhật Bản đă phạm sai
lầm nghiêm trọng khi đi ngược lại quy
luật đó. Họ đă hiện đại hóa
đường sắt bằng cách kiên cố hóa toàn bộ
20,264 km đường sắt khổ 1.067 trước khi
thực hiện ĐSCT. Chỉ trong năm 2005 đă
xảy ra liên tiếp hai vụ lật tàu kinh hoàng làm trên 500
người chết và bị thương làm dân Nhật
phẫn nộ và chủ tịch tập đoàn
đường sắt Nhật Bản phải từ
chức. Hiện Nhật Bản đang phải ôm hận
với một hệ thống đường sắt
lạc hậu, chưa t́m ra lối thoát th́ làm sao có thể
giúp VN hoàn thành 1,530 km ĐSCT được!? VN vẫn duy tŕ
cả một hệ thống đường sắt
khổ 1m lạc hậu mà tham vọng lao theo dự án
ĐSCT chẳng khác nào lao theo vết xe đổ của đường
sắt Nhật Bản.
Dự
án ĐSCT đang là đề tài được Quốc
hội VN bàn thảo. Hôm nay, 9 tháng 6, các báo lớn của VN
như báo điện tử Đảng CSVN, báo CAND, báo Thanh
Niên, … đồng loạt đưa tin dự án
được mang ra mổ xẻ cả ngày hôm qua và đă
gây tranh căi quyết liệt tại nghị trường.
Bàn thảo th́ cứ bàn thảo, cho có vẻ dân chủ
như ai. Tranh căi th́ cũng cứ tranh căi cho vui vậy thôi
chứ mọi chuyện dường như đă
được quyết định rồi. Bởi VN
đă cam kết với Nhật Bản về việc xây
dựng đường tàu cao tốc Bắc- Nam dùng công nghệ
Shinkansen của nước này từ cuối năm ngoái.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ
trưởng Vơ Hồng Phúc đă thông báo cho phía Nhật
Bản về quyết định này khi Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ
tướng Yukio Hatoyama ở hội nghị thượng
đỉnh đầu tiên giữa Nhật và 5 quốc gia
trong vùng sông Mekong ở Tokyo vào đầu tháng 11-2009.
Chuyện
ĐSCT Bắc-Nam làm chúng ta liên tưởng đến
chuyện Bauxite Tây Nguyên. Trong chuyện Bauxite Tây Nguyên,
vấn đề vẫn được đem ra thảo
luận ở Quốc hội trong khi lănh đạo
Đảng CSVN đă hứa với lănh đạo
Đảng Cộng sản Trung Quốc từ trước
rồi. Kết quả th́ như chúng ta đă biết, dù
được sự phản biện, góp ư chân t́nh và phản
đối của hàng ngàn trí thức, dự án vẫn
tiến hành.
Quốc
hội là cơ quan đại diện cao nhất của
dân. Quốc hội là nơi quyết định các quốc
sách và Chính phủ thực hiện. Ở Mỹ hay các
nước tiên tiến khi chính phủ đề nghị
chính sách mà Quốc hội không phê chuẩn th́ cũng
chẳng đi đến đâu. Thế nhưng ở VN
lại khác, cái qui tŕnh này bị đảo ngược:
Chính phủ quyết định và Quốc hội...
gật. Do đó chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các
bộ trưởng VC đồng ḷng ủng hộ siêu
dự án ĐSCT Bắc-Nam. Vấn đề
được đưa ra Quốc hội để
thảo luận, trong khi Chính phủ đă quyết
định. Chuyện rơ như ban ngày. Mọi việc
đă được quyết định trước.
Việc đưa ra bàn thảo tại Quốc hội
chỉ là h́nh thức cho có vẻ dân chủ. Thực
chất, Chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng đâu
cần nghe theo Quốc hội. Quyết định vấn
đề là Bộ chính trị, mà Thủ tướng là
một thành viên. Do vậy, Nguyễn Tấn Dũng toàn làm
cái chuyện “tiền trảm” để đặt sự
kiện vào chuyện đă rồi và “hậu tấu”
bằng câu “đây là chủ trương lớn của
Đảng” là xong!
Câu hỏi đặt ra là lư do nào mà Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng vội vă cam kết với
Nhật Bản về việc xây dựng ĐSCT Bắc-Nam
và đă thông báo cho phía Nhật về quyết định
này trong tháng 12-2009 và tháng 4-2010 trong khi dự án này c̣n đang
ở giai đoạn tŕnh Quốc hội xem xét. Sở
dĩ VN buộc phải chọn công nghệ Shinkansen
của Nhật v́ chỉ có Nhật mới đồng ư cho
VN vay vốn thông qua ODA song phương với WB và ADB (Asian
Develop ment Bank). Vay vốn của Nhật có nghĩa là
phải sử dụng các thiết bị và kỹ thuật
của Nhật cung cấp. Đồng thời nước
Nhật sẽ bán được hàng tỷ Mỹ kim hàng
hoá và các công ty của họ sẽ kiếm được
các hợp đồng thi công béo bở.
Câu hỏi lại được đặt ra
là với một phí tổn dự án khổng lồ như
vậy, động cơ nào mà chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng vẫn nhắm mắt làm ngơ đi vay
để làm cho bằng được? Câu trả lời
là, một phần, Đảng và chính quyền đặt
kỳ vọng vào dự án với một ư nghĩa chính
trị giúp đánh bóng thành tựu phát triển kinh tế
vốn ́ ạch của VN. Nhưng lư do chính, cốt lơi
của vấn đề, là 10% hoa hồng không dưới
5 tỷ Mỹ kim trên tổng giá trị của dự án 56
tỷ USD khiến họ phải thực hiện bằng
mọi giá, không cần biết hiệu quả hay không
hiệu quả! Khoản hoa hồng kếch xù này sẽ
được trả cho chủ đầu tư là các quan
chức CSVN khi đi vay vốn và cả khi chọn nhà
thầu. Đó cũng là lư do v́ sao những gần đây
chính quyền VN rất tích cực và chịu khó đi vay
tiền của các nước, các tổ chức tài chính
thế giới để phát triển lung tung, không cần
biết đến hiệu quả. Nợ nần chồng
chất th́ phó mặc cho các thế hệ kế tiếp
gánh và con cháu các đời sau phải nai lưng ra trả. Dự
án đường sắt cao tốc Bắc-Nam là một
miếng mồi to mà các quan chức CSVN xác định
cần phải xơi. Dự án càng lớn, kinh phí càng cao và
tốc độ càng nhanh th́ tiền ăn chia càng nhiều
và họ càng quyết tâm ăn, ăn cho nhanh, bất kể
hậu quả!
Trần Việt Tŕnh, 9-6-2010
(Suưt nữa sau 75 đă trở thành công nhân
đường sắt của bộ Giao thông
Vận tải của
nước CHXHCN Việt Nam ưu
việt)
Đường
sắt cao tốc và IQ
Mùa hè năm nay oi bức
khác thường, phần th́ do thời tiết khắc
nghiệt ít mưa, phần th́ do điện lực hay cúp
điện. Ngoài ra, dự án Đường sắt cao
tốc (ĐSCT) cũng đang góp phần hâm nóng dư
luận trong nước. Khiến cho cái nóng bức mùa hè
càng thêm ngột ngạt. Đại dự án ĐSCT –
một giấc mơ Việt Nam – có thể làm thay
đổi bộ mặt lạc hậu chậm tiến
của đất nước.
Đến nay, vẫn c̣n quá
sớm để biết Quốc hội có “đồng
thuận bấm nút” hay không. Và cũng c̣n quá sớm
để thấy được sự thành công tốt
đẹp của siêu dự án này. Bởi v́, phải
chờ đến 25-30 năm sau, khi những người
đề xuất siêu dự án này không c̣n trên dương
thế mới biết được kết quả
của nó.Tuy nhiên, không quá khó khăn để nhận ra,
để báo trước là đại dự án này sẽ
khó thành công. Và cũng không cần phải là “chuyên gia,
viện sĩ”… hay những ǵ cao siêu mới thấy
được điều này. Bởi v́, đại dự
án này có quá nhiều “bất cập” cùng những sự
“lạc quan tếu” của những người “thích
đùa”!
Những bất
cập…..
Thứ
nhất. Xem thường Quốc hội.
Hiến Pháp ghi rơ “Quốc hội là Cơ quan quyền
lực cao nhất”. Trong chuyến thăm Nhật vào tháng
Tư vừa qua, ông Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư Vơ Hồng Phúc đă nói với
các quan chức Nhật Bản rằng “VN sẽ thông qua
chủ trương xây dựng hệ thống Shinkan sen
1.500 km nối Thủ đô với thành phố lớn
nhất nước, TP HCM.” (http:// vnexpress.net)
Vậy th́, ông Phúc là người
quyết định chứ đâu phải là QH!
Thứ hai. Không
có sự chuẩn bị, nghiên cứu kỹ càng khi lập
báo cáo. Theo lời ông TGĐ Tổng Công ty ĐSVN Nguyễn
Hữu Bằng “Báo cáo tiền khả thi là vô cùng quan trọng
để làm cơ sở xin ư kiến về chủ
trương nhưng đây là lần đầu chúng tôi
tŕnh một dự án ra QH nên chưa có kinh nghiệm” (http://www.vnexp
ress.net)
Vậy th́, những con số 56
tỉ USD, hoàn thành sau 25 năm, có lợi, có lăi… đáng tin
được mấy phần? Cũng theo lời ông
Bằng “C̣n nếu để chở hàng th́ đă có
đường biển. Với bờ biển chạy
dọc theo chiều dài đất nước, việc
vận chuyển hàng hóa phải thuộc về
đường biển chứ không phải là
đường sắt”.
Đường biển chỉ
thuận lợi khi nhiều hàng nặng và không đặt
nặng vấn đề thời gian. Hơn nữa,
vận tải đường biển cần cảng sâu
để lên xuống hàng. Việt Nam tuy có bờ biển
dài nhưng không có nhiều cảng để lên xuống
hàng hóa. Do vậy, vận tải đường sắt
vẫn là phương tiện hữu ích. Ngoài ra, không ai
muốn đi Sài G̣n – Hà Nội mà phải gởi 200kg hành lư
bằng đường biển.
Thứ
ba. Lợi ích kinh tế. Theo lời ông
Bộ trưởng Bộ GTVT Hồ Nghĩa Dũng th́ “Trong
báo cáo tŕnh Quốc hội, chúng tôi đă phân tích hiệu
quả kinh tế xă hội và kinh tế tài chính. Có thể
nói rằng, hiệu quả kinh tế đơn thuần
th́ không cao song dự án có thế lấy thu bù chi, hoàn
trả được vốn. Ngoài ra, hiệu quả
ở đây cần xét trên yếu tố cộng
đồng”! (http://vnexpress.net).
Một dự án 56 tỉ đôla
mà hiệu quả kinh tế không cao th́ tại sao phải
làm? Bởi v́, người nghèo không có điều kiện
đi ĐSCT. Vậy th́, ĐSCT làm ra chỉ phục
vụ người có tiền, người giàu. Mà dự án
lại không đem lại hiệu quả kinh tế, th́
Chính phủ lấy tiền đâu để nâng cao đời
sống của người nghèo? Giàu nghèo đều
đóng thuế, đều là công dân của xă hội.
Đầu tư cả hàng mấy chục tỉ đôla
để phục vụ người giàu th́ có công bằng
hay không? Trong khi đó, nợ quốc gia th́ chia đều.
Điều này có quá bất công không? Yếu tố “cộng
đồng” ở đây là yếu tố ǵ và cho “cộng
đồng” nào?
Thứ
tư. Một dự án mập mờ. Chính
phủ chỉ muốn Quốc hội “thông qua” dù báo cáo
không rơ ràng, đầy đủ để các đại
biểu có thể thấy được những lợi,
hại, khó khăn của dự án. Vậy th́, Quốc
hội dựa vào cái ǵ, điểm nào để đánh giá
dự án này là nên làm hay cần làm? Như vậy, có phải
Chính phủ đang muốn “giấu” Quốc hội,
giấu các vị đại biểu đáng kính đại
diện cho Nhân Dân hay không?
Với
những “luận điệu” “Cha mẹ chưa cho phép
cưới th́ chưa bàn chuyện ǵ xa hơn” th́ rơ ràng cái
siêu dự án ĐSCT khó mà thành công! Việt Nam là một
quốc gia. Dự án ĐSCT là một siêu dự án – một
Giấc Mơ Việt Nam – một quyết định có thể
đưa Việt Nam vươn ra thế giới mà
cũng có thể nhấn ch́m Việt Nam trong nợ nần,
phá sản. C̣n QH là một Cơ quan quyền lực cao
nhất của quốc gia. Chứ không đơn thuần
là một mái ấm gia đ́nh của ai đó.Tuy nhiên, tôi là
một người dễ tính. Vậy
xin được hỏi vị dân chi phụ mẫu kia
rằng.
- Sau khi ông bà Thứ
trưởng cho phép con trai (hay con gái) của ông lập gia
đ́nh, thằng con trai của ông bảo rằng “Con
cưới cave”. C̣n con gái th́ bảo “Con cưới anh bán
thuốc lắc”!
Ông bà Thứ trưởng có
“đồng thuận” cho con ông lập gia đ́nh hay không?
Thứ
năm. Địa h́nh dân cư. Dân cư
Việt Nam trải dài theo cả nước. Nếu Sài G̣n
cách Hà Nội vài trăm cây số th́ ĐSCT có cơ hội
thành công cao. Bởi v́, người ở Sài G̣n đi
về, làm việc trong ngày ở Hà Nội và ngược
lại. C̣n thực tế th́ sao? Hiện nay, người
dân ở những tỉnh thành đổ về Hà Nội
hoặc là Sài G̣n để kiếm việc làm. Do vậy,
ĐSCT phải rài khắp miền đất nước.
Giá vé từ đó sẽ cao, phải cao. Và cũng không ai có
thể ở tỉnh mà đi làm việc ở Thủ
đô hàng ngày v́ không có tiền mua vé – trừ những
người “lương” ít mà “lậu” nhiều mới kham
nổi.
Thứ
sáu. Ư kiến người dân.
Đại biểu Quốc hội th́ “ĐSCT là giấc
mơ của người dân”. Thử hỏi, đến
hôm nay đă có cơ quan nào của Chính phủ thử làm
một “trưng cầu dân ư” hay chưa? Đă có vị
đại biểu QH nào tổ chức gặp cử tri
của ḿnh để hỏi ư kiến, nguyện vọng
của họ hay chưa? Một siêu dự án chiếm
đến hơn một nửa GDP của đất
nước mà người dân không được tham gia ư
kiến th́ quả là bất cập.
Và những lạc
quan tếu…
“Dự án đón đầu…
đến đó thu nhập đầu người 3.000USD/năm”!
Xin thưa là không cần đứng chờ 25-30 năm
để đón đầu làm ǵ. Hăy nói ngay bây giờ.
Cứ cho là ngay bây giờ chúng ta có phép “nhiệm màu” nào
đó. Chỉ cần “nhắm mắt” rồi mở
mắt th́ chúng ta đă có ĐSCT và thu nhập
3.000USD/Năm! 3.000USD chia cho 12 tháng th́ một tháng nhận
được 250USD. Chưa trừ thuế đóng cho Nhà
nước hay thuế đóng cho vợ, hay cho mèo, đào,
ghẹ, hay cave… và cũng chưa tính tiền ăn trưa…
Dưới đây là bảng giá vé của hăng Hàng Không
Việt Nam. Từ Nha Trang đi Sài G̣n là 650.000 đồng
(36USD) – giá một chiều và là giá rẻ nhất.
Nếu giá vé ĐSCT bằng 75% của giá vé máy bay th́ giá vé
ĐSCT từ Nha Trang đi Sài G̣n là 487.500 đồng
(27USD). Đi về vị chi là 54USD. Một tháng làm 250USD mà
tiền vé ĐSCT một ngày tốn hết 54USD (1.080USD/ tháng)
th́ có mà đi khai phá sản!
Vậy th́, tạm cho giá vé
ĐSCT từ Phan Thiết đi Sài G̣n tốn chừng
5USD/ngày – giá khứ hồi. Một người ở Phan
Thiết đi làm ở Sài G̣n tốn 25USD cho một
tuần làm việc – tính theo lịch làm việc từ
thứ Hai đến thứ Sáu. Một năm đi làm 46
tuần sau khi trừ 6 tuần nghỉ lễ. 46 tuần x
25USD = 1150 USD tiền vé cho ĐSCT. Có ai dám bỏ ra hơn
1/3 tiền lương của ḿnh để đi lại
hàng ngày hay không? Và liệu giá vé 5USD th́ ĐSCT có đủ
trả tiền bảo quản, lương bổng cho nhân
viên hay không? Những câu hỏi mà không cần trả
lời v́ nó quá rơ ràng.
“Đi ngay vào hiện
đại…” Nói vậy th́ một người giàu có trả
hai chục triệu đô la để được Nga
đưa vào vũ trụ th́ ông ta trở thành Phi hành gia?
Một đất nước hiện đại
được đánh giá qua giáo dục, y tế, cơ
sở hạ tầng đô thị, bộ máy chính quyền,
phúc lợi xă hội của người dân, thượng
tôn pháp luật v.v. Giáo dục th́ phải tốt. Đào
tạo được người tài. Y tế th́ phải
cao. Nghiên cứu thuốc để trị được
những bệnh hiểm nghèo. Mỗi bệnh nhân nằm
một giường. Cơ sở hạ tầng đô
thị không úng nước, không bụi bặm, không bị
dây điện chằng chịt. Bộ máy chính quyền th́
ít tham nhũng. Trọng dụng người có thực tài.
Hạn chế quan liêu hành chính để chống lăng phí.
Phúc lợi xă hội th́ cao. Người nghèo
được học miễn phí. Thượng tôn Pháp
luật th́ từ các quan chức Chính phủ đến
người dân thường phải hành xử theo Luật
pháp. Người làm quan chức không nên dựa thế
ỷ quyền để làm gương cho người dân.
Biết tự trọng và liêm sĩ để tránh những
việc xấu xa như “hoa hồng PCI”, “hoa hồng
tiền polymer”, hay sang tận Venezuela để vận
động chính phủ nước này in tiền polymer
để được hoa hồng.
Con số 56 tỉ USD. Theo ông
TGĐ Bằng th́ “chưa có kinh nghiệm làm báo cáo tiền
khả thi…”! Vậy th́, con số 56 chỉ là con số
ảo. Khi làm xong, dự án ĐSCT sẽ cả trăm
tỉ USD hoặc hơn. Bởi lẽ, bên Nhật (hay Tàu)
chưa chắc hay dại ǵ nói con số thật.
Để các “chú” bắt tay vào làm đă chứ. Lúc đó
lưỡi câu đă móc. Muốn nhả cũng không
được. Hơn nữa, c̣n lạm phát, thất thoát
tiêu cực v.v… Chỉ tính 10% hoa hồng là người dân
Việt Nam đă mất hơn 5 tỉ USD rồi. Bài
học nhăn tiền. Vụ bauxite Tây Nguyên. Một dự án
mà theo lời các vị dân chi phụ mẫu là
“được bàn thảo kỹ lưỡng…”! Nhưng
đến nay th́ một trong hai nhà máy vẫn chưa xây
dựng v́ c̣n đang “thương thảo, đàm phán”! Mà
giá thành của hai nhà máy này đâu phải dễ chịu.
Từ dưới 400 triệu USD và chưa được
vài năm, dự án bauxite phi mă một cú trên 30% để
lên đến 500 triệu USD. Vậy th́, 20-30 năm là một
thời gian quá dài để mơ mộng giữ
được con số 56 tỉ USD để có
được một ĐSCT “hiện đại”!
Bauxite Việt Nam biên tập